VƯỜN CÒ NHÀ TÔI
Vườn cò là một
“kỷ niệm” thời thơ ấu tôi không bao giờ quên, vì nó là nguồn hạnh phúc cho gia
đình tôi, nhưng đôi khi cũng gây bao nỗi khổ cho gia đình.
Nhà tôi có vườn tre (gia đình gọi là gồ), rộng khoảng hai sào phia sau nhà. Gồ tre rậm rạp um tùm, chim muông và các sinh vật (rắn, rết, cáo, chim chóc …) sinh sống. Đặc biệt là cò trắng khoang và cốc mầu đen (cốc là tên của bà cô bác nên gia đình tránh từ cốc gọi là cò đen). Thu nhập của gồ tre chính là tre. Tre bán cho cả làng và làng xung quanh để làm nhà và đồ dùng dân dụng đời sống hàng ngày. Trong thơi kỳ kháng chiến chống Pháp, tre còn dùng cho việc rào làng kháng chiến. Gia đình tôi chặt không biết bao nhiêu cây tre vi (loại có nhiều gai) ủng hộ rào làng kháng chiến và làm cọc chống nhảy dù.
Hằng năm cứ đến mùa hè cò lai bay về sinh sống làm tổ sinh đẻ trên ngọn tre, đến khi cò con lớn biết bay kiếm ăn, dịp cuôi mùa thu đầu mùa đông cò lại bay đi hết. Cụ sinh ra tôi (cụ Lộng), một nông dân biết nhiều chữ Nho, có am hiểu và có tâm linh, thấu hiểu tuc ngữ dân gian “đất lành cò đậu” nên cụ không phá gồ tre và đuổi cò, măc dù trồng cây khác có lợi hơn. Tôi hồi đó còn nhỏ nên rất thích cò, tôi thuộc lòng những câu ca dao “con cò bay lả bay la, bay từ cửa tổ bay ra canh đông”. Cò bay qua cánh đồng lúa rộng sau làng làm rung động lòng con trẻ: “con cò mỏi cánh bay ngang, dạt dào sóng lúa mênh mang sớm chiều” . Cò rất nhiều, đậu trắng xóa cả gồ tre, làm rất nhiều tổ trên từng cây tre. Có thể bắt cò con về ăn thịt hoặc lấy trứng về ăn, nhưng nhà tôi không bao giờ ăn, thi thoảng có ăn trứng, trứng cò to như quả trứng gà, nhưng ăn cảm giác không khoái. Trai trẻ trong làng thì đến xin bắt cò con và trứng về ăn, ông cụ dễ tính nên thoải mái, nhưng quy định mỗi tổ để lại một ít trứng để cò khỏi bỏ đi, nhờ vây mà vuờn cò mãi mãi tồn tại. Thời Pháp vườn cò nhà cũng góp không nhỏ vào kháng chiến, trong gồ có nhiều hầm bem (bí mật) để bảo vệ cán bộ kháng chiến. Có lần cán bộ đang họp ở nhà tôi thi Pháp bao vây, không kịp chạy sang khu an toàn (Vũ dương), bí quá phải chui vào hầm và bụi rậm để trốn. Bọn lính thấy nhiều cò, nên chỉ bắn cò, quên cả lùng kiếm, khi rút đi, sân cò bấn chết chúng vứt đầy sân, không đem đi. Cán bộ an toàn cả, không ai bị bắt, làm thịt cò nhắm rượu., cười vui, coi như thắng lợi.
Đến khi cải cách ruộng đất (1956), gia đình bị quy là địa chủ bị đuổi đi nơi khác, gồ tre bị phá chặt trụi, tan nát, cò bỏ đi biến và không bao giờ quay lại. Khi sửa sai, bố tôi và gia đình cố gắng cũng "sửa sai” cứu vớt vườn cò nhưng không được.
Nhà tôi có vườn tre (gia đình gọi là gồ), rộng khoảng hai sào phia sau nhà. Gồ tre rậm rạp um tùm, chim muông và các sinh vật (rắn, rết, cáo, chim chóc …) sinh sống. Đặc biệt là cò trắng khoang và cốc mầu đen (cốc là tên của bà cô bác nên gia đình tránh từ cốc gọi là cò đen). Thu nhập của gồ tre chính là tre. Tre bán cho cả làng và làng xung quanh để làm nhà và đồ dùng dân dụng đời sống hàng ngày. Trong thơi kỳ kháng chiến chống Pháp, tre còn dùng cho việc rào làng kháng chiến. Gia đình tôi chặt không biết bao nhiêu cây tre vi (loại có nhiều gai) ủng hộ rào làng kháng chiến và làm cọc chống nhảy dù.
Hằng năm cứ đến mùa hè cò lai bay về sinh sống làm tổ sinh đẻ trên ngọn tre, đến khi cò con lớn biết bay kiếm ăn, dịp cuôi mùa thu đầu mùa đông cò lại bay đi hết. Cụ sinh ra tôi (cụ Lộng), một nông dân biết nhiều chữ Nho, có am hiểu và có tâm linh, thấu hiểu tuc ngữ dân gian “đất lành cò đậu” nên cụ không phá gồ tre và đuổi cò, măc dù trồng cây khác có lợi hơn. Tôi hồi đó còn nhỏ nên rất thích cò, tôi thuộc lòng những câu ca dao “con cò bay lả bay la, bay từ cửa tổ bay ra canh đông”. Cò bay qua cánh đồng lúa rộng sau làng làm rung động lòng con trẻ: “con cò mỏi cánh bay ngang, dạt dào sóng lúa mênh mang sớm chiều” . Cò rất nhiều, đậu trắng xóa cả gồ tre, làm rất nhiều tổ trên từng cây tre. Có thể bắt cò con về ăn thịt hoặc lấy trứng về ăn, nhưng nhà tôi không bao giờ ăn, thi thoảng có ăn trứng, trứng cò to như quả trứng gà, nhưng ăn cảm giác không khoái. Trai trẻ trong làng thì đến xin bắt cò con và trứng về ăn, ông cụ dễ tính nên thoải mái, nhưng quy định mỗi tổ để lại một ít trứng để cò khỏi bỏ đi, nhờ vây mà vuờn cò mãi mãi tồn tại. Thời Pháp vườn cò nhà cũng góp không nhỏ vào kháng chiến, trong gồ có nhiều hầm bem (bí mật) để bảo vệ cán bộ kháng chiến. Có lần cán bộ đang họp ở nhà tôi thi Pháp bao vây, không kịp chạy sang khu an toàn (Vũ dương), bí quá phải chui vào hầm và bụi rậm để trốn. Bọn lính thấy nhiều cò, nên chỉ bắn cò, quên cả lùng kiếm, khi rút đi, sân cò bấn chết chúng vứt đầy sân, không đem đi. Cán bộ an toàn cả, không ai bị bắt, làm thịt cò nhắm rượu., cười vui, coi như thắng lợi.
Đến khi cải cách ruộng đất (1956), gia đình bị quy là địa chủ bị đuổi đi nơi khác, gồ tre bị phá chặt trụi, tan nát, cò bỏ đi biến và không bao giờ quay lại. Khi sửa sai, bố tôi và gia đình cố gắng cũng "sửa sai” cứu vớt vườn cò nhưng không được.
Đất nhà tôi là
“đất lành cò đậu”, gia đình tôi không vinh hoa phú quý, nhưng cũng không hèn,
ăn ở có đức, con cái không ham làm giầu,
nhưng có học, không cần học vị nhưng có hiểu biết rộng. Cụ chia khoảnh đất lành
cho các con mỗi người một mảnh. Mặc dù sống xa nhà nhưng chúng tôi vẫn giữ, không
bán đất lành tổ tiên để lại lấy tiền ăn tiêu phung phí.
Cho đến nay, trong đời sống xã hội, đua đòi, nhiều người
thích giầu sang, thích nhà to, xe hơi… thích học vị…thích và thích..., nhưng con
cháu cụ Lộng vưỡn thế. Ông Oánh, con rể cụ (anh rể cả), nhà thơ làng Tống, rất nho nhã, kính tặng tôi đôi câu đối:
Tiên tổ phúc lưu truyền.
Tử tôn văn hóa thịnh.
Câu đối rất chuẩn, hợp với tâm linh của tôi và gia đình tôi, bà xã và các cháu thuộc lòng, tôi coi đó là "luật gia" trong nhà, phải giữ và tôn thờ.
Từ con cò nói linh tinh, xin lỗi độc giả đây là chuyện riêng tư, người viết rất tự hào.