MỖ với INTERNET !
Từ ngày nghỉ hưu đến nay, máy tính là bạn thân, là bồ của mỗ (bà xã kêu như thế). Ngày nào mỗ cũng sử dụng, chủ nhật mỗ giành riêng cho sự đọc, đọc hết mọi thứ, văn học, y học…, buổi sáng hàng ngày đọc tin tức, buổi tối viết blog cá nhân cho zui và gửi mail cho người thân. Từ ngày có máy tính inter. chất lượng cuộc sống của mỗ cao hơn nhiều, hơn cả năm tháng của đời đi học, hơn hẳn cả quá trình phấn đấu một thời trẻ trung.
Inter. giúp mỗ tăng thêm vốn quý của đời, cho đến nay đã U77 mỗ vẫn tiếp tục “bồ bịch”. Làm việc với mạng inter một cách bài bản, sẽ không bị giảm mà con tăng khả năng tư duy, phòng chống được lú lẫn tuổi già, tự điều chỉnh giữ gìn sức khoẻ tâm thần, thậm chí cả sức khoẻ thể chất nữa. Tuổi cao, quỹ thời gian còn ít, mạng inter. giúp mỗ dung nạp nhanh bồi thêm kiến thức còn hẫng, không cần phải đọc sách báo, đỡ tốn tiền (đọc mạng rẻ lắm, rẻ như bèo). Mỗ hay viết blog, mỗ đã trở thành blogger để tự sướng, khoẻ lên và bớt ngu. Vốn ngân sách của mỗ chủ yếu trông vào lương hưu, rất thấp, đối với người khác không đủ tiền ăn sáng, với mỗ tất tật mọi thứ. Mỗ đã có một bài cũng trên blog, tít là “Sướng nhờ lông” (Sống nhờ lương), mỗi lần đọc lại bài cũng thấy zui, tự an ủi được mình, nhiều ông bạn đọc cũng khoái và tâm đắc.
Thú vị hơn, inter giúp mỗ mở rộng tầm nhìn (nhìn xa, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn rộng). Ngồi ở nhà mỗ cú thể biết được những gì xảy ra trong lòng trái đất, hành tinh trên bầu trời, ngoài biển khơi mênh mông, rồi nhưng vật vô hình như thần, phật, chúa trời, to cao như núi thái sơn, nhỏ như vi khuẩn độc hại. Ngồi ở Hà nội mỗ có thể “trông bắc trông nam, trông cả địa cầu” . Đúng vậy, chỉ một địa chỉ mail (nv_chat2006@yahoo.com.vn) mỗ có thể trao đổi, liên lạc rất nhanh từ Sài gòn, thậm chớ từ Mỹ, Pháp…Hồi ông anh ở Mỹ, cậu em ở Sài gòn mất, mỗ không có điều kiện đi, nhưng mỗ ngồi trước màn hình chỉ cần ít phút là đã xem được hình ảnh lễ tang. Internet, thế mới tài!
Viết bài này mỗ hơi ba hoa một chút nhưng không bốc phét, bịa ra đâu nhé, he…he!.
nv_chat2006@yahoo.com
VƯỜN CÒ NHÀ TÔI
18/12 NO EL

Nhà mỗ hiện nay có 4 nhà giáo: Hai cựu giáo chức Hai nhà giáo là CBGD đang dậy ở hai trường đại học lớn. Mỗ rất tự hào!
Thắng, học sinh cũ tôi dạy từ năm 1968, hiện đang ở Quảng ninh, đã nghĩ hưu, điện chúc mừng vợ chồng tôi, nhân ngày 20/11. Lúc nhận điện, bà xà đang nằm viện, không kịp trả lời cám ơn. Bây giờ rất ân hận. Mong anh Thắng thông cảm!
C H Ữ T Â M
MẸ RẤT CAO QUÝ
Kết tinh phẩm giá của phụ
nữ là ở đức người mẹ,
mẹ đẻ con ra, mẹ nuôi dạy dỗ con khôn lớn, mẹ vất vả, gian truân, vui,
buồn, tự hào, bất hạnh… vì con. Khi đã lên bà (bà nội, bà
ngoại) thì bản chất người mẹ vẫn còn nguyên vẹn. Cho đến khi mẹ ở tuổi
hồng phúc (90), đại hồng phúc (bách niên), chất “mẹ” vẫn không hề phai.
Công cha như núi Thái
sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho trọn chữ hiếu mới là
đạo con
(Ca dao)
Mẹ lấy chồng từ tuổi 13, nên không được
học hành, mù chữ, bất hạnh. Sau CM, (vui một chút) có phong trào học bình dân
học vụ (BDHV), để mọi người học chữ, chỉ cần biêt 24 chữ cái, chưa cần đọc và
đánh vần, ai không biết chữ qua cổng
làng phải chui “cổng mù”, cổng mù là một cái hố bùn đến đùi, chui qua dàn rào gai tre, bà và chị Thư không
học lớp BDHV, không biết chữ a, b. c…nên
thường xuyên phải chui cổng mù. Bà là con dâu duy nhất nên vất vả lắm, phải lo mọi
việc, từ đồng áng, vườn rau đến cơm nước
trong nhà, nuôi 5 con lớn khôn, thành người, ông nội (cụ Địch) có hai bà con gái, một bà mất sớm, một bà đi lấy chồng (bà Tốn)
không hợp tính, hay uống rượu say, hách dịch
chửi, làm khổ bà. Đến khi có các cháu lại vất vả, nuôi và chăm các cháu
nhỏ. Từ đứa đầu lòng, đẻ thời CCRĐ (cháu Khôi) đến tất cả các cháu nội ngoại, ít
nhiều, đều được bà chăm sóc. Đặc biệt, cháu Huyên (cháu dại), đời cháu ngắn ngủi, bị tật nguyền, bà giành tất
cả tình thương cho cháu Huyên. Khi khóc, khi vui cười, khi ỉa đái, tắm rửa cũng
như khi đau ốm bà đều chăm lo, bà nghĩ rằng, cháu Huyên thiệt thòi nhất, đang gánh nặng thay cho cả nhà, phải được
chăm sóc đừng để cháu thiệt. Khi cháu
Huyên 7 tuổi, cháu ốm, bà đang bế cháu, tự nhiên có một con quạ khoang bay qua
cửa kêu réo ầm lên, bà có linh cảm, nhà
có việc chẳng lành, (đây chỉ là sự trùng lặp ngẫu nhiên) bảo tôi đi tìm anh Lư
về ngay, tôi bỏ giờ lên lớp ở cấp II Yên binh để đi ra Mỏ (Yên Mỹ), nơi anh Lư
dạy hoc. thì cháu Huyên ngáp, bà khóc rú ầm lên, chị Lư dang nấu bếp chạy lên bù
lu bù loa, thì cháu vừa tắt thở. An h Lư về, làng xóm sang, lo liệu chu đáo cho cháu. Bà thương cháu, khóc
nhiều nên bị điếc, bị lẫn. Tuy nhiên bà
vẫn còn đủ sức khỏe chăm sóc, dạy dỗ các cháu nhỏ sau này, cháu Thúy, Thùy, Vượng,
Hằng Tâm, ít nhiều đều có bàn tay của bà chăm sóc, cho nên các cháu khôn lớn rất
yêu thương bà, bà vui tuổi già, bớt lẩm cẩm. Khi bà tuổi quá cao, tính tình có
nhiều thay đổi, lú lẫn tăng dần, hay
quên, đòi xóm giềng hết cái này cáii khác, chửi người này người khác, đi lang
thang từ đầu làng đến cuối, rẽ vào nhà người
ta chơi, nói lảm nhảm, họ không tiếp, thậm chí còn bị đóng cổng không cho vào.
dần dần họ cũng thông cảm và thương. Tôi dang định chuyển bà xã lên HN ở gần các
cháu, vì các cháu đã lớn, đi bộ đội, học đại học ở HN cả. Cô Qúy sợ bà khổ,
thương bà , khổng bỏ nhà đi ở nhà một mình cùng với các chị, gia đình anh Lư
chăm sóc quản lý bà. Đến khi bà qua đời, lo liệu chu đáo cho bà, sau ngày lễ 49
mới chuyển lên HN ở cùng gia đình.
Cuộc đời bà vất vả, khổ sở nhưng tôi rất ít khi thấy bà
khóc, bà với ông không bao giờ to tiếng cãi nhau, bà thương ông lắm. Chỉ có hai
lần tôi thấy nước măt của bà tràn ra, một
lần nhà lên địa chủ ông bị trói, dân làng đấu tố, mấy ngày không ăn, bà sợ ông chết, bà vừa kêu khóc vừa
chửi rủa bọn khổ chủ ác ôn. Và lần này bà khóc vì thương nhớ cháu Huyên tàng tật,
bà gắn
bó, gần gũi chăm sóc suôt mấy
năm.
Gia đình ở HN nhưng đến giỗ bà, chỉ có vợ chồng
tôi về thắp hương cúng bà. Mãi đến khi
làm xong nhà mới, đến ở, gia đình tôi có
điều kiện cúng giỗ bà trên bàn thờ vong, các cháu nội ngoại ở Hà nội đến đông đủ
cả, con cháu đều thắp hương, tôi nhớ mãi câu nói của cháu Cừ: “Từ khi bà mất, đến
nay lần đầu tiên cháu mới được thắp hương cúng giỗ bà !”.
Ở HN giỗ ông bà, cúng trên một bát
hương thờ vong, về ý nghĩa tâm linh không thể bầng thắp hương trên bát hương thờ
chính ngôi ở nhà thờ tổ quê hương, nơi bà sống cả đời và yên nghĩ ngàn đời.
“?Nghin năm mảnh đất quê hương, là hòn đất đã trộn xương máu mình” (Xuân Diệu).
Âu cũng là buổi hội ngộ tâm linh trong hoàn cảnh và
thời cuộc, cũng an ủi được!
NHỚ THƯƠNG MỘT THỜI (CCRĐ)
Trong bài này, tôi
không nhớ rõ ngày tháng xẩy ra, chỉ biết khoảng thời gian.
Những sự việc và tên
thì nhớ cụ thể, nhưng cũng không nêu hết.
1/ Đội cải cách về xã
Năm CCRĐ (1955-1956) tôi mới 12 tuổi,
học lớp 4 trường Phổ thông cấp I xã Vạn
xá (sau đổi là Yên xá, bao gồm xã Yên xá và thị trấn Lâm ngày nay). Sau phát động
giảm tô cuối năm 1954, đến tháng 6/1955 đội Cải cách ruộng đât về xã. Đội có Đội trưởng, 2 đội phó và khoảng trên 20 cán bộ
đội viên. Ủy ban kháng chiến hành chính
xã đón tiếp trọng thể. Dân quân bồng súng thật chào, thiếu nhi đánh trống ếch,
hô khẩu hiệu nhiệt liệt hoan nghênh… và hò lơ…Đội không mặc săc phục riêng, hoặc
comple-cavat dầy tây như bây giờ, mà phải ăn mặc rất giản dị, đi dép cao xu đen.
Để tuyên truyên CCRĐ, bộ phim Bạch Mao Nử (Trung quốc) được chiếu
nhiều lân trên bãi ngã tư Phố cháy, nhân
dân đi xem rất đông, thậm chí có người xem mhiều lần, mưa rét cũng đi xem bởi
vì nội dung phim tố cáo tên địa chủ Hoàng Thế Nhân rất ác, CCRĐ bị bần cố nông TQ bắt đấu và tử hình. ND ngồi xem chăm chú hô: Đả
đảo địa chủ ác ghê. Các cụ già như cụ Đăng cũng đi xem, rất hởi lòng hởi dạ.
Ủy ban kháng chiến hành chính (UBKCHC)
và chi bộ xã không phải là đối tượng làm việc với đội, mà cán bộ đội CC đi bắt “rễ” “chuỗi”, chỉ làm việc với cốt cán trong chi bộ. “Rễ” và
“chuỗi” thuộc tầng lớp nghèo, bần cố nông, giai cấp bị bóc lột, căm thù sâu sắc
bọn địa chủ cường hào bóc lột.
Khi bắt được “rễ và chuỗi” rồi, UBKCHC
xã và chi bộ xã chỉ làm công việc đảng và chính quyền, đứng ngoài vòng cốt cán, không những, cán bộ
xã còn bị nghi ngờ có nhiều phần tử địch và quốc dân đảng chui vào .
Chỉ có rễ, chuỗi và bần
cố nông vô sản mới là cốt cán tin cậy nhất.
Họ lập Hội nông dân (Nông hội) gồm
thành phần cốt cán chủ chốt và tổ chức hoạt động, chi bộ và ủy ban không tham gia. Buổi họp đầu
tiên do hội nông dân tổ chức, phiên họp này mở rộng thành phần. Trong phiên họp đầu tiên đội phổ biến tiêu chuẩn
phân loai thành phần. Gia đình tôi, theo tiêu chuẩn thì chỉ là trung nông, vì
bình quân ruộng không nhiều, từ cụ Lộng
đến con cháu đều là người lao động trong nhà, biết cày, cuốc, gồng gánh, tát nước,
chăn trâu cắt cỏ…Gia đình có con (anh Hạp) đang là học sinh trường tỉnh, tình
nguyện đi bộ đội kháng chiến (khi đó chưa có luật NVQS). Nhà là cơ sở kháng chiến từ năm 1948, nơi UBKCHC
huyện và xã đóng và làm việc, bộ đội
hành quân qua làng thường xuyên ngủ trọ, có khi đóng quân tại nhà mươi ngày liền.
Thời
gian khoảng 2-3 tháng, căng thẳng, đội phát động quần chúng nông dân tố khổ, kể
khổ (tố điêu), một số gia đình trong xã bị quy là địa chủ cường hào ác bá, làm
tay sai cho thực dân Pháp, bị bắt trói, cùm, tống giam, (ông Hựu)
bị như thế. Gia đình tôi bị quy là phú nông bị cách ly, không còn được ở hàng tầng
lớp nông đân . Một thời gian sau, họ lập các phiên tòa, do tòa án đặc biệt sử
án. Ông Tởi (Cổ liêu) bị xử tử hình, ông Hựu là địa chủ cường hào gian ác, bị kết
án 16 năm tù, nhiều địa chủ khác trong xã cũng bị kết án tù.
Đến tháng 4 năm 1956, nhà tôi bị quy là địa chủ lọt lưới. Khoảng 8 giờ sáng, đội dân quân do môt cán bộ
của đội CC cùng dân quân tiến vào cổng, dân quân băn mấy phát súng chỉ
thiên và gọi ông ra nghe đọc lệnh cuả Đoàn ủy cải cách, rồi dân quân trói tay
ông, bắt cả nhà ngồi ngoài sân nghe phán. Sau đó họ khám xét lục lọi của cải, từ
cái nồi, cái ấm, dụng cụ đồ dùng trong nhà bất cứ vật gì to hay nhỏ có thể làm
quả thực (để chia cho bần cố nông) đều tịch biên, dồn vào hai buồng nhà thờ khóa
cửa lại và niêm phong. Trâu và lợn (60 k) họ bắt đi cho nông dân khác nuôi, chỉ
còn con chó mới đẻ là họ để lại cho gia đình. Họ tra khảo ông và mọi người
trong nhà xem của cải còn dấu ở đâu, gửi nhà ai, chôn cất chỗ nào…Một số sách,
truyện bằng tiếng Pháp của anh Hợp, giấy tờ có chữ Pháp như tước bạ, khai sinh,
rồi một số sách chữ nho của ông,. gia phả họ Nguyễn, và chi tộc, sách cúng bái
đều bị các ông các bà cho là tài liệu nô dịch của đế quốc và phong kiến đem đi
đốt để phi tang.
Ông bị trói đưa đến nơi giam. Chiều, tôi
mang cơm, ông không ăn được chút nào, ông không bị cùm khóa chân như dịa chủ cường hào gian ác, nhưng bị trói, hai
cô du kích sợ ông trốn, cầm mã tấu đứng
canh gác.
Vài ngày hôm sau nông dân tổ chức đấu
ông cùng thời điểm với bà Tân (bà Tân,
chứ không phải là ông Tân, vì bà Tân “lộn sộn”, tội to hơn ông Tân “thày cúng”,
thế mới hay, ông Mô cũng quy địa chủ
nhưng trốn đi buôn xa, nên không bị bắt). Không phải là phiên tòa có tòa án đăc
biệt, chỉ là phiên tòa nhỏ đấu tố ở thôn,
ông không bị trói, đứng chắp tay quay mặt về ông bà bần cố nông. Bà nhà ta bị bắt
đến ngồi trong hàng rào thép gai, (khu để
giành riêng cho bọn địa chủ, cường hào) tôi theo bà ngồi đó nên biết hết. Tất cả,
họ đều xưng hô với ông bà là mày tao, ông phải gọi tất cả mọi người từ già đến
trẻ, thậm trí trẻ con là ông bà và xưng với họ là con. Khổ chủ đấu tố ông nhà
ta đều là người trong làng, trong xóm, họ hàng, thậm chí có cả cháu bên nội bên
ngoại, (Tôi nhớ tên từng người nhưng không nói ra đây), họ đều vạch mặt chỉ tên
ông, tội của ông: cướp ruộng, bóc lột
người lao động, thuê người trả công rẻ mạt, bóc lột tô tức nặng nề, dùng nỏ bắn
những ông bà bắt cò, nuôi chó giữ để cắn người ăn trộm cò và nhiều tội…Mỗi khổ
chủ lên đấu tố lại trỏ vào măt ông quát: Mày có biết tao là ai không? Ông chắp
tay nói: Con có biết ạ! Khi các khổ chủ lên đấu tố, ông “im lặng nghe” không chối
cãi hoăc thanh minh gì cả mà nhận tội hết, chỉ nói gọn lỏn một câu: “Con có tội con xin
nhận tội”. Nếu không nhận thì là ngoan cố, tội sẽ nặng.
Để khủng bố địa chủ đứng trên bục đấu,
mỗi lần có khổ chủ lên vạch mặt, nông dân lại hô to: “Đả đảo địa chủ ngoan cố”
. Đả đảo, đả đảo!
Cuối cùng họ kết tội ông. mày là đia chủ kháng
chiến, không bị tù, tịch thu toàn bộ đất thổ canh và thổ cư, ao, vườn, nhà cửa, trâu
bò lợn. Ông được về ở với gia đình, về đến nhà, vừa bị đấu tố, ba ngày không ăn
uống ông nằm thở,.. Bà sợ ông chết, ngồi
hè kêu khóc vật vã. Hôm sau, họ đến đuổi nhà tôi không được ở nhà nữa, nhà cửa chia cho ông bà bần cố nông (tôi
còn nhớ tất cả những người được chia nhà), nhà phải sang ở nhà ông Nâu, người
cùng họ và cùng xóm. Nhà chỉ có một gian hai trái, nhà tranh vách đất, dột nát,
trước nhà ông Sắc, bên cạnh nhà ông Miền. Tài sản được mang theo chỉ có toàn bộ
bàn thờ, đồ thờ, mấy cái giường và chõng tre, dụng cụ cá nhân, một số nồi, rổ
rá, bát đia cũ kỹ không thể làm quả thực. Nhà 6 người ở chỉ có thế, ông nằm
chõng tre, bà, chị Thiềm và tôi một giường,
vợ chồng anh chị Lư một giường. Tất tật mọi sinh hoạt chỉ trong khoảng 15 mét vuông, giường thờ, bát hương thờ
tổ tiên để ngoài sân, che phủ chống được mưa nắng, không thờ cúng, Cảnh sinh hoạt hằng ngày, hai bữa cơm độn
khoai lang, thức ăn chỉ là cà muối, dưa muối, canh suông, nước cua muối và mắm
tép…, không có tiền đi chợ, không có thịt,
cá. Công việc hàng ngày, chị Thiềm, chị
Lư đi bắt cua và kéo vó tép, đi nhặt, mót hoa màu, chị Thiềm còn đi làm thuê ở Sú, ( nhờ vậy mới có gia đình Huệ,
Lăng, Quy, Phú ), ông thì đan lát, đan rổ rá và vót đũa để bán. Cũng may, anh
Lư chặt được tre ở gồ nhà ta, chặt trộm nhưng công khai, không ai giữ, bà con hàng xóm họ nhìn thấy cũng lờ đi, tích trữ được khá nhiều tre, ông có việc ngồi làm, vừa
kiếm tí tiền vừa giao tiêp với người mua, quên nỗi đau, Chị Thiềm, chị Lư đi
làm thuê bất kỳ việc gi để có hào có xu thu nhập. Anh Lư đang học ớ trường cấp
2 Ý yên, tôi và anh Lư không bỏ buổi học nào, đi học rất đều đặn vì ông khuyên
phải chịu khó học, vả lại ở lớp không có sự phân biệt thành phần, nhất là lớp 7
anh Lư học, học sinh hầu hết là con địa chủ Thời kỳ căng thẳng nhất khoảng 3 tháng đầu,
nhà luôn bị bao vây theo dõi. Một lần anh Hạp (tên gọi bác Hợp khi đó) không biết
nhà bị quy là địa chủ, vê thăm nhà vào
buổi tối, cũng may, đến gần nhà thì gặp ông Miền, là dân
quân đang đi tuần tra báo tin, rất tốt
và kéo về nhà, gọi anh Lư sang, hai anh em nói chuyện với nhau được một lúc,
anh Hạp biết đầy đủ , anh lén sang nhà, nhìn ông bà đang nằm dưới ánh đèn dầu
tù mù, chào rồi vội vàng luồn sau làng đi ngay. Tôi ngủ say nên không biết gì.
May anh Hạp không bị bắt. Những cán bộ thoát ly, bộ đội như thế dễ bị bắt giam
khi về nhà. Khi đó đội CC và dân quân quyền hành cao lắm, “Nhất đội nhì giời”
dân quân coi giời như nón rách. Chả thế mà khi gia đình tổng bí thư Trường Chinh
bị quy là địa chủ, dân quân làng Hành
thiện lên tận HN băt Tổng bí thư, đến cổng
thì bị bảo vệ băt giam, có ghê không.
Tại sao nhà tôi lại bị quy là địa chủ?
Bởi sắp kết thúc CC, đội sắp rút lên
đường, số lượng địa chủ quy định ỡ xã Vạn xá chưa đủ (thành tích) cho nên , đội CC và hội nông dân
vẫn phải tiếp tục phát hiện địa chủ còn lọt lưới, những nhà có máu mặt, những
người bị ghen ghét…là đối tượng quy xét. Nhà tôi trong điện có đất, có nhà có trâu…Ruộng thì những người làm thuê
cho nhà tôi, họ bị đội CCRĐ bắt phải khai vống lên, (1sào thành 1 sào rười),
nhà tôi có 4 mẫu 5 sào thành 10 mẫu. Nhà chỉ có ba lao động (ông, bà và chi Thiềm),
Chị Lư có tí ruộng riêng (bên bà ngoại cho) nên không được tính lao động trong
nhà, anh Lư và tôi đang đi hoc. Vì vậy số lượng công lao động đi thuê vượt quá “chỉ tiêu” để quy là địa chủ. Ông lại
có chức phó Lý mua để gọi cho sang (ông lý Lộng), họ quy là chức dịch trong làng. Ngoài nhà ta con
ông Mô và bà Tân cũng bị lọt lưới như nhà tôi.
3/ Sửa sai
Đến tháng 5 năm1957 thì nhà tôi được
sửa sai xuống thành phần, được chuyển về nhà cũ. Tài sản trả lại toàn bộ nhà cũ
và thổ cư, đất thổ canh bị trưng mua không trả. Ông nhà ta và tất cả mọi người
lúc này trở thành người có uy tín, đi
đâu cũng được chào, chắp tay , kính cẩn lễ phép . Hôm chuyển về nhà, bà con dân
làng đến đông lắm, giúp đỡ, mỗi người một tay nên rất nhanh gọn, mọi người
tranh thủ thanh minh việc tố ông nhà ta chỉ là bắt buộc. Mấy người thân cận,
các cháu đấu tố ông nhà ta rất ân hận, có người khóc. Mấy kẻ tố điêu, bị dân chửi
phải trốn tránh, ở thiên hạ họ còn xé quần áo, rạch mép. Sau này bọn tố điêu
không thể ở làng được phải đi ở nơi khác (gọi là đi khai hoang). Đúng dịp giỗ cụ
nội , ông nhà ta làm bữa cỗ mời làng nước,
ngồi đầy sân rất vui . Sửa sai, ông rất vui và phấn khởi, trở về
nhà củ, làng nước, xóm giềng, bà con đến giúp, đến chơi đông vui, tấp nập. Các
cán bộ xã thôn bị xử trí, quy oan nay trở lai làm việc như xưa thường xuyên có
mặt ở nhà để động viên gia đình, ôn nhớ lại một thời kháng chiến, và nhất là bất
bình thời “bần cố nông làm chủ”. Ông rất bùi ngùi khi các cán bộ kể lai việc
ông Trường Chinh xin từ chức, Bác Hồ cũng phải nhỏ nước mắt , Đại tướng Võ
Nguyên Giáp thay mặt chính phủ đọc lời xin lỗi trên báo . Có lẽ có thời CCRĐ
này tôi mới hiểu sâu sắc ông nhà ta. Nhân đây, tôi xin nói về ông! Bản chất là một nông dân, biết quản
lý và làm mọi việc của nhà nông, nhưng ông không đơn thuần. Ông là người không
học Quốc ngữ, nhưng chữ nho biết nhiều, rất nhân hậu, thương người, ít nói, có
trước có sau. Khi gia đình mất hết, anh Lư đang học lớp 7 cuối cấp (tương đương
lớp 9 bây giờ) đã lớn tuổi, tôi còn bé, ạnh
định bỏ học đi kiếm ăn giành phần học cho tôi, ông không cho anh bỏ mà bắt phải
đi hoc, thậm chí không được nghỉ buổi hoc nào. Bởi vậy chúng tôi mới được học đến
nơi đến chốn. Khi bị tịch biên hết, chỉ còn ổ chó mới đẻ 2 con, chó mẹ sợ bỏ
đi, ông bắt tôi phải đem một con cho Khôi (cháu đầu lòng) mới sinh, để chó dọn cứt cho cháu Khôi. Thấy
tôi ôm chó con đến, anh chị Oánh cảm động chảy nước mắt (chuyện này chỉ có
tôi biết, bây giờ mới kể). Khi sửa sai,
ông khuyên chúng tôi nên hòa nhập với tất tật, “không cố chấp”, “sẵn sàng có
lòng vị tha”, không phải họ có tội, hãy đánh kẻ chạy đi, không đánh kẻ chạy lai. Sửa sai là thế, chứ không phải
sửa sai rồi thù oán nhau. Ngay đến ông Nâu khi sửa sai trở về nhà cũ, nơi nhà
tôi đã ở hơn một năm, quá rách nát, ông nhà ta sẵn sàng cho cả ngôi nhà tre cột
gỗ ba gian rất tốt về làm lại nhà, cả họ kính phục lòng tốt của ông…Tôi không
thể nào quên lời ông nói với cả nhà câu thành ngữ dân gian “sông có khúc, người
có lúc”. Còn bọn tố điêu, đây là “khúc” và “lúc” bị chửi, bị rạch mép, phải cút khỏi làng, đi
khai hoang .
Đối với tôi cuộc đời đã
từng trải. CM tháng 8, còn rất nhỏ, không hề biết gi, kháng chiến chống Pháp
vẫn còn nhỏ nên biết không nhiều. Có lẽ CCRĐ, đảo lộn cuộc sống ghê quá làm cho
tôi tuy ít tuổi, còn nhỏ nhưng đã thành
người lớn, thành kẻ “biết tuốt”. Trên đây là những điều rất thật, là kỷ niệm quá khứ một thời.
Trang entry này tôi viết
đăng trên blog để ôn lại quá khứ cuộc đời, quá khứ gia đình, ai đọc, ai hiểu,
tùy.
Nv_chat2006@yahoo.com.vn
VƯỜN CÒ NHÀ TÔI
Vườn cò là một “kỷ niệm” thời thơ ấu tôi không bao giờ quên, vì
nó là nguồn hạnh phúc cho gia đình tôi, nhưng đôi khi cũng gây bao nỗi khổ cho
gia đình.
. Nhà tôi có vườn tre (gia đình gọi là gồ), rộng khoảng hai sào phia sau nhà. Gồ tre rậm rạp um tùm, chim muông và các sinh vật (rắn, rết, cáo, chim chóc …) sinh sống. Đặc biệt là cò trắng khoang và cốc mầu đen (cốc là tên của bà cô bác nên gia đình tránh từ cốc gọi là cò đen). Thu nhập của gồ tre chính là tre. Tre bán cho cả làng và làng xung quanh để làm nhà và đồ dùng dân dụng đời sống hàng ngày. Trong thơi kỳ kháng chiến chống Pháp, tre còn dùng cho việc rào làng kháng chiến. Gia đình tôi chặt không biết bao nhiêu cây tre vi (loại có nhiều gai) ủng hộ rào làng kháng chiến và làm cọc chống nhảy dù.
Hằng năm cứ đến mùa hè cò lai bay về sinh sống làm tổ sinh đẻ trên ngọn tre, đến khi cò con lớn biết bay kiếm ăn, dịp cuôi mùa thu đầu mùa đông cò lại bay đi hết. Cụ sinh ra tôi (cụ Lộng), một nông dân biết nhiều chữ Nho, có am hiểu và có tâm linh, thấu hiểu tuc ngữ dân gian “đất lành cò đậu” nên cụ không phá gồ tre và đuổi cò, măc dù trồng cây khác có lợi hơn. Tôi hồi đó còn nhỏ nên rất thích cò, tôi thuộc lòng những câu ca dao “con cò bay lả bay la, bay từ cửa tổ bay ra canh đông”. Cò bay qua cánh đồng lúa rộng sau làng làm rung động lòng con trẻ: “con cò mỏi cánh bay ngang, dạt dào sóng lúa mênh mang sớm chiều” . Cò rất nhiều, đậu trắng xóa cả gồ tre, làm rất nhiều tổ trên từng cây tre. Có thể bắt cò con về ăn thịt hoặc lấy trứng về ăn, nhưng nhà tôi không bao giờ ăn, thi thoảng có ăn trứng, trứng cò to như quả trứng gà, nhưng ăn cảm giác không khoái. Trai trẻ trong làng thì đến xin bắt cò con và trứng về ăn, ông dễ tính nên thoải mái, nhưng quy định mỗi tổ để lại một ít trứng để cò khỏi bỏ đi, nhờ vây mà vuờn cò mãi mãi tồn tại. Thời Pháp vườn cò nhà cũng góp không nhỏ vào kháng chiến, trong gồ có nhiều hầm bem (bí mật) để bảo vệ cán bộ kháng chiến. Có lần cán bộ đang họp ở nhà tôi thi Pháp bao vây, không kịp chạy sang khu an toàn (Vũ dương), bí quá phải chui vào hầm và bụi rậm để trốn. Bọn lính thấy nhiều cò, nên chỉ bắn cò, quên cả lùng kiếm, khi rút đi, sân cò bấn chết chúng vứt đầy sân, không đem đi. Cán bộ an toàn cả, không ai bị bắt, làm thịt cò nhắm rượu., cười vui, coi như thắng lợi. Đến khi cải cách ruộng đất (1956), gia đình bị quy là địa chủ bị đuổi đi nơi khác, gồ tre bị phá chặt trụi, tan nát, cò bỏ đi biến và không bao giờ quay lại. Khi sửa sai, bố tôi và gia đình cố gắng cũng "sửa sai” cứu vớt vườn cò nhưng không được.
. Nhà tôi có vườn tre (gia đình gọi là gồ), rộng khoảng hai sào phia sau nhà. Gồ tre rậm rạp um tùm, chim muông và các sinh vật (rắn, rết, cáo, chim chóc …) sinh sống. Đặc biệt là cò trắng khoang và cốc mầu đen (cốc là tên của bà cô bác nên gia đình tránh từ cốc gọi là cò đen). Thu nhập của gồ tre chính là tre. Tre bán cho cả làng và làng xung quanh để làm nhà và đồ dùng dân dụng đời sống hàng ngày. Trong thơi kỳ kháng chiến chống Pháp, tre còn dùng cho việc rào làng kháng chiến. Gia đình tôi chặt không biết bao nhiêu cây tre vi (loại có nhiều gai) ủng hộ rào làng kháng chiến và làm cọc chống nhảy dù.
Hằng năm cứ đến mùa hè cò lai bay về sinh sống làm tổ sinh đẻ trên ngọn tre, đến khi cò con lớn biết bay kiếm ăn, dịp cuôi mùa thu đầu mùa đông cò lại bay đi hết. Cụ sinh ra tôi (cụ Lộng), một nông dân biết nhiều chữ Nho, có am hiểu và có tâm linh, thấu hiểu tuc ngữ dân gian “đất lành cò đậu” nên cụ không phá gồ tre và đuổi cò, măc dù trồng cây khác có lợi hơn. Tôi hồi đó còn nhỏ nên rất thích cò, tôi thuộc lòng những câu ca dao “con cò bay lả bay la, bay từ cửa tổ bay ra canh đông”. Cò bay qua cánh đồng lúa rộng sau làng làm rung động lòng con trẻ: “con cò mỏi cánh bay ngang, dạt dào sóng lúa mênh mang sớm chiều” . Cò rất nhiều, đậu trắng xóa cả gồ tre, làm rất nhiều tổ trên từng cây tre. Có thể bắt cò con về ăn thịt hoặc lấy trứng về ăn, nhưng nhà tôi không bao giờ ăn, thi thoảng có ăn trứng, trứng cò to như quả trứng gà, nhưng ăn cảm giác không khoái. Trai trẻ trong làng thì đến xin bắt cò con và trứng về ăn, ông dễ tính nên thoải mái, nhưng quy định mỗi tổ để lại một ít trứng để cò khỏi bỏ đi, nhờ vây mà vuờn cò mãi mãi tồn tại. Thời Pháp vườn cò nhà cũng góp không nhỏ vào kháng chiến, trong gồ có nhiều hầm bem (bí mật) để bảo vệ cán bộ kháng chiến. Có lần cán bộ đang họp ở nhà tôi thi Pháp bao vây, không kịp chạy sang khu an toàn (Vũ dương), bí quá phải chui vào hầm và bụi rậm để trốn. Bọn lính thấy nhiều cò, nên chỉ bắn cò, quên cả lùng kiếm, khi rút đi, sân cò bấn chết chúng vứt đầy sân, không đem đi. Cán bộ an toàn cả, không ai bị bắt, làm thịt cò nhắm rượu., cười vui, coi như thắng lợi. Đến khi cải cách ruộng đất (1956), gia đình bị quy là địa chủ bị đuổi đi nơi khác, gồ tre bị phá chặt trụi, tan nát, cò bỏ đi biến và không bao giờ quay lại. Khi sửa sai, bố tôi và gia đình cố gắng cũng "sửa sai” cứu vớt vườn cò nhưng không được.
Đất
nhà tôi là “đất lành cò đậu”, gia đình tôi không vinh hoa phú quý, nhưng cũng
không hèn, ăn ở có đức, con cái không ham làm giầu, nhưng có học,
không cần học vị nhưng có hiểu biết rộng. Cụ chia khoảnh đất lành cho các con
mỗi người một mảnh. Mặc dù sống xa nhà nhưng chúng tôi vẫn giữ, không bán đất
lành tổ tiên để lại lấy tiền ăn tiêu phung phí.
Cho đến nay, trong đời sống xã hội, đua đòi, nhiều người thích
giầu sang, thích nhà to, xe hơi… thích học vị…thích và thích..., nhưng con cháu
cụ Lộng vưỡn thế. Ông Oánh, con rể cụ (anh rể cả), nhà thơ làng Tống, rất nho
nhã, kính tặng tôi đôi câu đối:
Tiên tổ phúc lưu
truyền.
Tử tôn văn hóa thịnh.
Câu đối rất chuẩn, hợp với tâm linh của tôi
và gia đình tôi, bà xã và các cháu thuộc lòng, tôi coi đó là "luật
gia" trong nhà, phải giữ và tôn thờ.
Từ con cò nói
linh tinh, xin lỗi độc giả đây là chuyện riêng tư, người viết rất tự hào.
Lờ u lu, sắc lú
Mỗ (lão, tớ)
có cảm giác mình bị lú. Nhà thơ Vũ Quần Phương nói vui với mỗ, lú như ông là tốt,
có lợi cho thiên hạ (he…he!)! Ai thì không biết, nhưng đối với mỗ chỉ thấy khhổ,
thậm chí rất khổ . Mỗ ngồi một mình trước computer tra từ “lú” trong từ điển Tiếng
Việt: “ Lú là ở trạng thái trí tuệ kém, hầu như không có hoặc không còn trí nhớ,
trí khôn”.
Mỗ chưa hoàn toàn như thế, nhưng có biểu hiện. hay quên, hoặc lúc nhớ lúc quên,…quên
tên người , tên địa phương, tên làng, tên phố…. Ngay cả, các tên sách, tên truyện, tên phim, tên vở
diễn mới đoc, mới xem cũng hay quên, tên nhân vật trong truyện, phim hoặc kịch
cũng thế. Thơ văn mỗ thuộc khá nhiều nay quên tiệt, thơ Tố hữu quên dã đành,
Truyên Kiều mỗ đã thuộc gần hết truyện, nay không còn nhớ nữa. Ngày xưa mỗ cũng
giao tiếp được với tây bằng tiếng Pháp, nhưng bây giờ thì xin chịu, vì quên hết
tiếng pháp rồi. Các tên thuốc, nhất là bây giờ có nhiều biệt dược rát khó nhớ.
Đếm cũng lẫn lộn, có khi đếm từ một đến một trăm cũng bị lẫn. Trong cộng việc, nếu làm hai ba việc cùng
một thời điểm rất dễ bỏ sót việc này hay việc kia. Chỉ có một việc rất muốn
quên, nhưng không bao giờ quên, đó là tiểu tiện (đái) ban đêm, Mỗi đêm mỗ phải đi tiểu bốn năm lượt,
mong cho quên, bớt vài ba, mà không sao quên được, còn trung tiện và đại tiện
cũng có thể xếp trong (lờ u lu sắc lú). Một điều vui là mỗ biết mỗ “lờ u lu sác
lú” là không đáng sợ, ( chỉ sợ mình không biết mình lú) mỗ không bị người đời
khinh hoặc trêu trọc. Đó cũng là hạnh phúc tuổi già, he…he!. Bạn đọc đừng cười nhé, vì cười người hôm trước, hôm sau
người cười đấy. Thế thôi!
CHỐNG
LÚ
Lú hoàn toàn không phải là ngu và ngược lại ngu không phải là
lú. Lú có khả năng tự hạn chế được, thậm chí chống lú được. Sự lú lẫn kết hợp
với bệnh lão như nặng tai, mắt kém, chân đau đi lại khó khăn, việc giao tiếp
bên ngoài, bạn bè thân khó, nhất là bạn già lờ u lu sắc lú, không ai, kể cả
người nhà không thèm nói chuyện với mỗ… Để có
nguồn vui tuổi già, mỗ buộc phải sử dụng máy tính (như bạn thân) để giao lưu
với internet, bạn bè qua email, mỗ có hai địa chỉ email để gửi thư, gửi bài.
Ngày nào mỗ cũng đọc mạng khoảng hai tiếng
vào đầu giờ sáng và tối trên computer
(không đọc và cũng không biết đọc trên điện thoại di động), còn giành
nhiều thời gian viết blog đăng trên mạng.
18/12 NO EL
ĐÊM25/12
Merry Christmas! Kính
chúc tất cả mọi người một mùa Giáng Sinh an lành và một năm mới sắp đến tràn
đầy hạnh phúc
Sống ở Hà nội, 50
năm, Mỗ hầu như không đi chơi đêm Noel, Duy có một lần, khoảng đầu thập kỷ 80
thế kỷ trước, hồi còn trẻ, 12 giờ đêm noel, mỗ đến nhà thờ Lớn nhưng quá đông, không thể nào vào được bên trong, phải đứng
ngoài xa, rất xa, mỗ đành phải quay ra đi quanh bờ Hồ. Người và người, giống
như mỗ, lũ lượt như mắc cửi, phần nhiều là các đôi trai gái trẻ dắt tay nhau đi
quanh hồ tìm nguồn hạnh phúc trong đêm giáng sinh. Thiên hạ gọi đùa là đêm “nô
em”.Từ đó đến nay mỗ cạch.
Mãi đến năm nay, đã U76, tối 24/12/9019, mới 8 giờ tối, thấy thiên hạ háo
hức đi chơi noel, mỗ hứng lên, chân đau cũng chống ba-tông đi chơi xem sao. Nhưng gọi là đi noel cũng chỉ
đi khỏi nhà, quanh ao làng dọc mấy phố, công viên khu Định Công, xem không
khí noel ở đây thế nào. Cũng người với
người vậy thôi, đi nhậu, uống cà phê và “nô em”. Qua một quán bia ngoài hè phố
mỗ thấy hai ông già noel trẻ măng mạc áo
phông đỏ ngồi, để râu trên bàn, uống bia hơi với lạc rang. Khi về qua một phố
đèn không sáng lắm, mỗ lại gặp một ông già noel nữa, ông bỏ râu trắng để trên
yên xe đứng vạch chim tè bên gốc cây, (he... he). Thấy mỗ ông già nô el
ngượng, quay mặt đi không dám nhìn mỗ, mỗ liền chủ động tấn công:
- Ông trẻ noel rởm ơi, đừng sợ, cứ thoải mái, ông đây
thông cảm, đưa hết quà rồi sao nhàn hạ thế! Lại đằng kia có quán bia hơi, có
hai ông sinh viên noel đang ngồi uống bia với lạc rang đấy, rồi đi nô em vẫn
còn sớm !
Thấy mỗ gọi hơi tếu, tỏ ra hiểu biết, lại vui chứ không phải chêu chọc gì, “ông
no el” nói ngay:
- Ông ơi! vất vả lắm ông ạ, cháu là
sinh viên đi làm để kiếm thêm ít tiền, chỉ hỏi thăm đường đi, tìm địa chỉ cũng
đủ mệt, tốn tiền điện thoại còn bị ngưòi ta chêu chọc nữa chớ. Bây giờ cháu lại
quay về lấy thêm hàng ở công ty và tiếp tục cho đến 0 giờ, noel.
Về đến chợ lại thấy nhiều bà nhiều chị
noel, mặc quân áo đỏ, râu trắng bán bánh
mỳ, hoa, mía, bóng bay…Các ông, các bà,
anh chị, nhiều đôi trai gái xộp túm vào mua. Các bà noel tha hồ bóp, tha hồ
chém…
ảnh cóp trên mạng
Đấy, chơi đêm noel năm nay vui và nhiều
chuyên thế đấy, cần gì phải đến nhà thờ Lớn để chen chúc. Tớ về đến ngõ thì
thấy trong ngõ các cháu đang chờ ông noel đến phát quà, tay cháu cầm một tờ
giấy nhỏ. Đó là một một bức thư cám ơn đã in sẵn, khi nhân được quà cháu
chỉ việc điền tên và quà đã nhận rồi ký tên ở cuối, đưa cho ông noel làm chứng
từ nộp cho chủ công ty.
Các
cháu nhận được kẹo sô cô la, một hộp bút
và một băng đĩa hoạt hình “Vui tuổi thơ”.Các cháu reo lên mừng quá. Hỏi ra mới biết, họ đã thu tiền
của cháu từ hôm trước, nào có cho không các cháu đâu.
Đây
là những gì tớ chứng kiến đêm noel.
Vui: Gặp ba ông già noel, hai ông ngồi uống bia, một ông đứng tè ở gốc cây, và
nhìn tấm ảnh trên, những ông bà noel thời @, buồn cười, đến nỗi nhịn không được phải đi
tè…tè !
Buồn: Các cháu nhỏ nhận được phần quà bằng tiền của mình từ tay ông
già noel rởm. Ôi đó cũng chỉ là một kiểu
“buôn thần bán thánh” thời công nghệ 4.0 ! Không biết mọi người thế nào, riêng
mỗ thì rất buồn!
Thật
là vui - buồn lẫn lộn đêm noel!
0h
đêm noel,25/12/2012
M Ố T
(mode- model-modus)
Tra từ điển và tham
khảo trên mạng internet thì mốt (mode) là khái niệm có nhiều cách hiểu,
cách định nghĩa, Mốt có
thể là sự kỳ khôi, kỳ
dị, là sự đỏng đảnh,
tức thời, thay đổi của thời trang ,..
Tiếng Anh gọi là “Model", cũng như tiếng Pháp, đều bắt nguồn từ tiếng Latinh "modus", có nghĩa là cách thức, phương pháp,
quy tắc, mức độ chuẩn mực chung được
công nhận tức thời nhưng dễ thay đổi.
Ta phiên âm theo tiêng Pháp. (mốt-mode), cách hiểu cũng có nét na ná
giống như định nghĩa chung.
Ở Viêt nam, khái niệm
“mốt” không đơn giản chỉ có thời trang, phạm vi mốt rất rộng, nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội,
kể từ sinh hoạt, chơi bời, ăn uống, đồ dùng sinh hoạt đến tâm linh. Riêng về thời trang thì thấy rõ nét nhất. váy ngắn,
quần đùi, áo hở ngực. Môt chuyện vui: Nhiều
thanh niên trẻ (cả nam lẫn nữ) khoái mặc quần bò sờn rách thủng cả đầu gối, gấu quần chó đớp rách lởm chởm, tưởng các cháu thiếu tiền, nhà nghèo phải mặc
quần rách. Không phải nghèo đâu mà
do phong trào khoái hợp “thời”, môt số cửa hàng thời trang xịn cũng phơi bán quần
rách đầu gối, giá lại cao nữa chứ,
mà giới trẻ lại tìm mua nhiều. Có những bạn trẻ có quần bó lành
lặn mới, lại dùng giấy ráp mài cọ cho mòn, bạc. Nếu tinh ý một chút, các xếp bự
đi hội nghị mặc comple cũng thế. Nhà nước.
Trong mọi lĩnh vực,
lĩnh vực nào cũng có mốt, đám cưới, thiếp cưới, mừng thọ, hội làng,xây cổng
làng, xây sửa điình chùa cũng mốt. sắm
ôtô, xe máy, điện thoại mobifone. Học hàm, học vị, bằng cấp thật giả cũng là mốt thời đại, Thân
thể xăm xổ rồng phượng đầy người, hết chân tay ròi cả chõ kín, đầu chọc, tóc
nhuộm đó, vàng, nâu, kính trắng mặc dù không cận…(còn nhiều nữa) Tất đều là mốt.
Giầu nghèo đều háo hức “mốt”, giâu thì khoe sang, nhiều tiền, nghèo thì đua đòi
mốt để khỏi bị thiên hạ coi thường. Mốt là một nguyên nhân nẩy sinh ra rất
nhiều tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, cướp, hụi, loạn xã hội,…mất tình cảm bạn bè, thâm chí tình máu mủ. Nhà
nước, các cơ quan từ nhỏ đến to, từ thấp đến cao đều thích mốt, mốt thì nhjiều đấy
không thể kể hết, chỉ cần một khái niệm rất “hoành tá tràng” la hiểu cả.
“Mốt” xin
bạn đọc bỏ bớt đi dấu mũ (^)
để thành mót thì đúng hơn..
.Mốt (mót) cũng chỉ là
đỏng đảnh có thời hạn.
Còn
những người có văn hóa, thì không thích mốt sống khác, tránh xa, kệ xác, có cách sống riêng,
không thích khen chê, thâm chí còn xấu hổ ngại ngùng khi sử dụng mốt. Một chuyện thật 100%: Một người, khi gia đình dọn về nhà mới, ra
cửa hàng nội thất định mua một bộ bàn ghế xịn, khắc đú kiểu rồng phượng, anh ta
ngắm nghía mãi, tần ngần fhì chị bán hàng nói, đây là bộ ghế theo mốt của tàu,
nhiêu người khoái mua, nhưng tôi khuyên anh tính toán, không nên mua. Chỉ mua
bộ ghế mây, vừa nhẹ nhàng, dề vận chuyển, lau chùi, giầu, nghèo đều ngồi được,
anh ta nghe lời ngay. Anh ta đến cửa hàng bàn đồ nghi thức trang trí cũng định
mua một chữ Tâm rất đẹp, chữ vàng trên khung nền đỏ, do nghệ nhân giỏi Nam bộsản xuất. chị nói vui hàng nói rất vui, chữ
tâm này chỉ bán cho những kẻ giầu nhiều tiền nhưng vô lương tâm. Ồ! Thế ra ngay cả những người bán hàng cũng không "mót", lại còn khuyên người mua hàng chớ có “mốt”.
20 tháng 11 năm 2019
Nhà mỗ hiện nay có 4 nhà giáo: Hai cựu giáo chức Hai nhà giáo là CBGD đang dậy ở hai trường đại học lớn. Mỗ rất tự hào!
Thắng, học sinh cũ tôi dạy từ năm 1968, hiện đang ở Quảng ninh, đã nghĩ hưu, điện chúc mừng vợ chồng tôi, nhân ngày 20/11. Lúc nhận điện, bà xà đang nằm viện, không kịp trả lời cám ơn. Bây giờ rất ân hận. Mong anh Thắng thông cảm!
Chính xác 39
Tin 39 người
chết trong công tơ nơ ở Essex (Anh) đã
loan đi từ nhiều ngay nay, nhưng đến hôm nay mới thật sự rõ ràng, bời vì có
đăng ảnh, danh sách tên và địa chỉ\ từng người. Tất cả đều là những người còn
trẻ ở sứ sở Viêt nam ta, không có một người nào nước ngoài như đồn đoán ban
đầu. Mỗ rất thương tâm, mặc họ là ai đi nữa. Mỗ xin gửi đến các gia đình lời
chia buồn sâu sắc, và nguyện cầu thế-phách của 39 anh chị sẽ sớm quy tụ, an
nghỉ nơi quê cha đất tổ. Ngày đón các anh các chị về dù có hoành tráng đến đâu
đi nừa, kiểu như đội bóng đạt huy chương về nước cũng vô nghĩa, mà tâm linh mới
là chủ yếu.
Cô Trà My. một nạn nhân
Thiên hạ nhiêu người chê trách, nào là tham tiền, hiếu thắng, mắc lừa… nhưng dù thế nào đi nữa cũng rất đáng thương. Lỗi không hoàn toàn tại các anh các chị. Theo mỗ các anh các chị đều là người tốt, không tội tình, được học hành, cũng không phải do số phận hẩm hiu.
Châu nhuận PhátCô Trà My. một nạn nhân
Thiên hạ nhiêu người chê trách, nào là tham tiền, hiếu thắng, mắc lừa… nhưng dù thế nào đi nữa cũng rất đáng thương. Lỗi không hoàn toàn tại các anh các chị. Theo mỗ các anh các chị đều là người tốt, không tội tình, được học hành, cũng không phải do số phận hẩm hiu.
Châu nhuận Phát là một ngôi sao điện ảnh Trung quốc công khai không ủng hộ đường lưỡi bò vì thế anh bị cấm đong phim ở TQ. Khi hỏi về vấn đề này, khi hỏi về vần đề này, anh nói;” Thế thì kiếm ít tiền hơn thôi”
Không con, hai vợ chồng sống đơn giản
dùng chiiêc điên thoại cũ suốt 17 năm, nhưng anh đã hiến khối tài sản 714 triệu
đô la cho công tác từ thiện trẻ em và người nghèo khổ. Nhân cách mà các nghệ sĩ quý tộc rởm, các ông hoàng tự phong
vô cảm ở Việt nam hãy xem mình có xứng đáng với Châu Nhuận Phát không.
“- Tiền cũng không phải là của tôi. Tôi chỉ là
người giữ chúng và tìm ai đó thích hợp để chuyển giao mà thôi. Giấc mơ từ nhỏ
của tôi là một cuộc sống có ý nghĩa thực sự và hạnh phúc”.
“ Trong cuộc sống chẳng dài và cũng chẳng ngắn
này - điều khó khăn nhất không phải là việc bạn kiếm được bao nhiêu tiền Điều
khó nhất là câu hỏi làm thế nào có thể bình thản trước mọi sóng gió cuộc đời và
có những người bạn tri kỷ. Tôi mong mình có thể sống đơn giản, không buồn lo
suốt quãng đời còn lại không buồn lo suốt quãng đời còn lại thay vì đau đáu vật
vã mưu tính chỉ nghĩ đến tiền”
Một cách nghĩ giản dị khiêm nhường, một lẽ sống khác biệt
đám đông. một nhân cách nhân văn thật sự đáng mến, đáng ngưỡng mộ cả Tài
lẫn Đức. Tầu cũng có những người rất tốt.
Phan PhúcC H Ữ T Â M

Đêm nay, khó
ngủ, trằn trọc mãi, mỗ ngồi đọc, ngẫm nghĩ, rồi chắp bút về chữ TÂM !
Tâm là tấm lòng, lòng tốt của người với người (theo từ điển-1974). Nhưng
hiểu được tâm (tấm lòng) không đơn giản chút nào, bởi tâm, khái niệm rất
trừu tượng, những kẻ ngu như mỗ không thể hiểu hết nhẽ. Tâm có nhiều khái niệm
đồng âm, phải tra từ điển để khỏi hiểu lầm, sai lệch thành tim (tim chó, tim
lợn…chẳng hạn).
Nhiều “nhà…”, nhiều đại gia giầu có khoe tấm lòng mình bằng chữ ‘tâm” hiển thị,
chữ tâm (chữ nho) treo ngay phòng khách, đặt ngay trước bàn làm việc, thờ trên
ban thờ. Họ cho rằng chữ tâm mấy ông đồ viết trên giấy thì tầm thường
quá, mà chữ tâm nhà đại gia phải được làm bằng đủ mọi chất liệu quý, bằng
bỗ quý, sơn son thép vàng, sơn mài khảm trai, kết bằng đá quý, dệt bằng nhung
lụa đặt vào khung sang trọng. Rất phản cảm, một số “đại gia” lại treo chữ
"nhẫn" bên trái chữ "tâm" thành nhẫn tâm (he…he !). Thật là
vừa ngu dốt vừa hài ước vừa thể hiện cái tầm trọc phú học đòi... Cũng trong
blog này mỗ đã viết một entry, “Ba Lần Không Ngu”, xin trích đoạn: “Một
lần mỗ đi xem triển lãm Giảng võ, vừa xem vừa mua sắm một số thứ. Đến một quầy
hàng bán đồ trang trí nội thất, mỗ ngắm mãi cái gì cũng đẹp, hào nhoáng,
duy có một bức tranh chữ “tâm” (chữ nho) là mỗ khoái, trên tấm
thảm đỏ của khung, chữ tâm nổi, màu vàng. Theo như cô gái quầy bán hàng, (giọng
Nam bộ dễ nghe), chữ "tâm" được kết bằng một loại đá quý màu vàng, do
nghệ nhân Nam bộ làm, giá bức tranh là hai triệu đồng (tiền năm 1999). Khi cô
biết mỗ không mua vì giá quá cao, cô liền cười, nói với mỗ: Chữ "tâm"
này cháu chỉ bán cho những kẻ vô lương "tâm", giầu có, troc phú nhưng
kém văn hoá, nghĩa là chỉ bán cho kẻ ngu.”.
Mỗ
đã đọc một entry trên mạng của Phan Cung Việt
bàn về chữ “Tâm”, xin trích: “Mùa xuân mùa hội người ta đua nhau đi xin một
chữ Tâm, về treo giữa nhà, dưới ban thờ tổ tiên, thế là xong. Là ổn cả Tâm
mình, Tâm đời. Người ta không biết Tâm dễ tai biến, tai biến mỗi ngày, mỗi giờ,
mỗi phút giây. Ngoài đời người ta chỉ chăm chăm hàng giả hàng nhái, người xấu
người tốt, chứ Tâm là thật. Người ấy có Tâm, thế là xong. Không biết có tâm
xịn, tâm nhái, tâm giả. Khẩu Phật, tâm xà. Hoặc đang Tâm Người bỗng đổi sang
Tâm Xà, thế mới sợ!”. Đọc xong mỗ hiểu thêm tâm của những kẻ dốt nát, rồi hứng lên ngồi viết bài này.
Thế
ra “tâm” cũng có tâm giả, mỗ cứ nghĩ chỉ có bằng giả, tiến sĩ giả, giáo sư giả.
Hàng giả thì nhiều rồi, nhưng có thể phát hiện được, thậm chí mắt trần cũng
nhìn thấy. Con tâm giả thì xin chịu.
Xem tiếp
Bài đăng cũ hơn