TỐNG XÁ QUÊ TA
Nguyễn Văn Chất
Hồi Nhi – 80
Hiện nay, Mỗ, tôi đang sống ở Hà nội
cùng với toàn thể gia đình, bà xã, các
con và các cháu nội ngoại. Không phải vì Hà Nội to đẹp, hoành tráng, ăn sung mặc
sướng, mà vì hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh gia đinh, Mỗ tôi phải xa rời quê cha đất
tổ .
“ Quê
hương là trùm khế ngọt”, thơ của Đỗ Trung Quân, hay, nhưng với Mỗ quê
hương không ngọt, thậm chí có vị đắng, nên Mỗ không ở quê, quê hương không phải
là chỗ nương thân. Nhưng “Nghìn năm mảnh
đất quê hương, là hòn đất đã trộn xương máu mình” (Thơ Xuân Diệu) lại đầy ý nghĩa, nên
Mỗ rất yêu quý quê hương, không phải bằng vật chất tầm thường, mà bằng cả tâm
linh.
“Con người
có tổ có tông
Như cây
có cội, như sông có nguồn”
Đặc biệt là làng thôn, nơi Mỗ được sinh ra, chôn nhau cắt
rốn và lớn lên.
Làng Tống xá, tổ tiên, ông bà và bố mẹ, dòng họ Nguyễn Văn ở đó nay vẫn
nguyên. Nhà thờ tổ (họ Nguyễn Văn) gần giữa làng to và khang trang. Hàng năm Mỗ về
cúng tổ ngày 10/3 âm lịch (trùng với giỗ
tổ Hùng Vương, hi, hi..).
Tìm hiểu vế đất quê làng Tống xá, Mỗ được biết, làng Tống xá đã có hơn
một nghìn năm rồi ( theo tài liệu trên mạng 1230 năm), ban đầu chỉ là nơi khai
khẩn của mấy gia đình họ Tống, dần dần đông
gia đình đến ở thành khu cư xá của họ Tống,
gọi là Tống Xá. Sau khi họ Tống lạc loài khỏi đi nơi khác sinh sống, thì Tống Xá
đã có nhiều họ hàng đến sinh sống làm ăn, dần dần thành khu dân cư tổng hợp nhiều họ (tên Tống xá vẫn được giữ nguyên - rất văn hóa…!). Hai họ lớn nhất hiện nay
là họ Dương Doãn… và họ Nguyễn Văn (A) -
(Tống xá có hai họ Nguyễn Văn), Họ Nguyễn Văn (A), họ Mỗ, tuy đến Tống xá sau nhưng, rất đông, hơn họ Dương,
dân số chiếm gần nửa làng Tống Xá ( Mỗ tôi
có một bài viết về họ Nguyễn Văn(A) trên
Blog Thảo Dân Hưu).
Làng Tống Xá không rộng, nhưng chạy
dài hướng đông tây khoảng một cây số, trước làng là một con đường cái rộng uốn khúc như hinh con long. Làng có nhiều dong ngõ, dân làng ở trong các
dong ngõ. Để dễ quản lý , làng chia thành từng xóm, xóm Đương, xóm Đá, xóm Đình, xóm Thần xóm Giữa,
và xóm Hà.
Đình và chùa làng Tống không nhiều. Chùa to và đẹp phía sau, cuối làng, do ta phá
lấy gạch xây hầm chống pháp, rồi bị Tây
đốt sạch. Gần đây được sư Da (tên cúng cơm),
người làng, họ Bùi, tu nơi khác,
cúng và xây lại chùa trên nền chùa cũ, không lớn nhưng có hồn, dân làng mừng lắm,
các phật tử phải đi lễ ở chùa Khám (cổ liêu), nay được lễ phật ở chùa làng. Tiếp là cụ sư Hải về
chủ trì và quản lý, tôn tạo, nâng cấp,
hiện đại đẹp khang trang, long trọng. Ngoài cổng chùa, phía trước là văn chỉ thờ
chỉ thiên Khổng tử (Nho giáo), mất từ
lâu, ít người biết. Tống xá có một đinh lớn thờ thần Đông (thành hoàng) phía sau làng, nên quen gọi là đình Sau, đình to và đẹp, linh thiêng,
ngôn ngữ làng kiêng gọi từ “đông”, phải đổi thành “đương”, (xóm Đông phải đổi
thành xóm Đương). Dọc làng có năm miếu nhỏ thuộc thành hoàng, trong đó
đình Nhị (thuộc thành hoàng) cũng to và hoành tráng hơn các miếu, nhưng cũng bị
Tây đốt, các miếu bị ta phá làm đường, nay không còn… Ngoài ra có đình Thánh tổ,
không phải là đinh làng mà đình của phường
đúc lưỡi cày cũng to và hoành tráng, thờ
cụ tổ Đức Minh Không, người từ nơi khác về làng dậy đúc. Trước đây chỉ có khoảng
mươi gia đình nghề đúc lưỡi cày và những người buôn bán lưỡi cày hay lễ cúng
vào ngày tết, ngày lễ hội. Ngày nay đình
Sau không còn, làng thờ thành hoàng luôn
tại đình Thánh tổ, coi đình Thánh tổ là đình làng. Một đình to trước xóm Đình, gọi là đình Đất, không thờ cúng mà chỉ để dân làng hội họp, nay
không còn, khu đất làm chợ, gọi là chợ Đình.
Tống xá từ thời thượng cổ, chỉ là dân
ngụ cư lâu đời nên không có ông
quan to nổi tiếng, chỉ có quan lại trong
làng. Một truyền thuyết thành truyện, xin kể cho vui:
Có một ông học giỏi thi đỗ quan nghè,
khi về, dân làng mừng quá đem kiệu, cờ
quạt ra đón trước làng. Nhưng khốn nỗi,
quan nghè muốn vào đình Sau vái báo
thành hoàng trước. Mặt khác ông kiêng trước làng vì có đường Hậu (bãi tha ma
làng Cổ liêu) ông nghè không muốn đi qua. Không thấy dân làng ra đón,
tưởng dân làng coi thường, ông Nghè tự ái tức quá nhảy xuống sông tự tử và thề
rằng, làng Tống Xá không bao giờ có người
học hành đỗ đạt. Cũng từ đó Tống Xá
không có người làm quan. Làng ân hận, phải
thờ quan nghè trong miếu thành hoàng ( gọi là miếu Đồng Chầu, nay cũng không còn),
đường vào làng nơi ông Nghè tự vẫn gọi là đường
Nghè ( ông Nghè), cánh đồng gần mộ ông , dân gọi là Nhiêu mả.
Làng ít cây to cổ thụ, có hai cây bàng to, trước cửa đình Đất, bị chặt
làm hầm chống Pháp. Một cây muỗm to lắm ( mấy trăm tuổi), không biết cây muỗm trồng
từ bao giờ giữa xóm Đương, phía trước miếu thờ thần Đông . Gốc cây muỗm to, phải
mười xoải tay, cao , không thang nào bác
lên được, cành lá tán rộng tới sào ruộng, nơi dân làng nghỉ ngơi trước khi đi
làm hoặc đi làm đồng về, nơi trẻ con chơi vui ngày tết, ngày lễ hội…Nếu được bảo
vệ cây cổ thụ thì chắc chắn cây muỗm sẽ được xếp vào loại những cây cổ thụ to đẹp
nhất đất nước. Do trình độ hạn chế, không nghiên cứu kỹ nên chính quyền muốn xây dựng nông thôn đẹp phá miếu thần Đông
và chặt cây muỗm để mở rộng và nắn đường làng thẳng cho khỏi quanh co.
Tống xá không phải đất thổ công lâu đời,
dân nơi khác đến sinh sống lập nghiệp, nên ruộng đất ít, chỉ có mấy cánh đồng
trước sau làng, dân số tăng nhanh. Làm ruộng không đủ sống, phải có nghề phụ làm
thêm trong tháng ba ngày tám, đòn gánh trên vai lúc thư nhàn. Từ nhỏ Mỗ đã thấy có các nghề, bưng trống, đúc, buôn
đồ đồng, hàn, gò (nồi, xong, chảo), Nghề đúc, trước đây chỉ đúc lưỡi cày bán cho
nhà nông, ngày nay cơ chế phát triển mạnh thành một tiểu khu công nghiệp đúc có
tiếng, đúc gang, đồng, đúc nhôm , không những chỉ môt vùng, mà cả nước.
Một
nghề phụ rất quan trọng đã từng một thời nuôi sống và làm rạng rỡ dân làng Tống Xá, đó là nghề bưng trống, Tống
Xá gọi là nghề “cổ tượng”. Từ đầu làng đến cuối làng, hầu như xóm nào, họ nào
cũng có người làm nghề bưng trống. Thị trường nghề trống là các trường học,
đình, chùa, nhà thờ đạo…và các cơ sở hội hè ở các vùng tỉnh Nam Định, Thái Bình,
Ninh Bình, Hà nam… tập trung nhiều nhất những nơi có nhà thờ thiên chúa giáo.
Một số có cửa hàng trống Cu tông (Tống xá) ở thành phố Nam định và thị xã Thái Bình.
Nhờ
nghề làm trống cùng với nghề đúc, buôn
bán mà mặc dù ruông đất quá ít, nhưng đời sống dân làng được đảm bảo, giáp hạt
không bị đói, ngày tết ngày giỗ có mâm quả tươm tất cúng tổ tiên. Thợ trống
không phải là thợ hèn, còn sang hơn cả thợ mộc, thợ xây, đi đến đâu, có việc,
đều được đãi cơm rượu tử tế. Nghề trống Tống Xá không có đình thờ, vì không có
ông tổ nghề như nghề đúc, nên ở thành hoàng (đình Sau), trong đình có treo
một trống cái rất to, mặt trống đúng bằng da một con trâu để lấy tiếng tăm (nay gọi là
thương hiệu), lúc đó Mỗ còn nhỏ, trẻ con đánh trống phải cầm dùi to (giống như
cái vồ nhưng rất đẹp) chạy từ xa đến gõ, trống không kêu đanh, nhưng “tiếng vang” cho một nghề của làng thì rất
rộng, mênh mông. Điều đáng ghi nhận, nhờ nghề trống, cùng các nghề đúc, đòn
gánh trên vai, dân làng giao tiếp rộng rãi khắp thiên hạ, mà nền văn hóa “làng
xã” ở Tống Xá phát triển. “Đánh trống” dân Tống Xá thuộc loại nhất nhì một
vùng. Các thợ trống đánh trống tế, lễ ở các đình chùa làng xã cực giỏi. Trẻ em
trong làng, Mỗ hồi nhỏ, đều biết đánh
trống rước, trống ngũ lôi, trống ếch, trống múa rồng, múa sư tử. Nghề trống rất có tác động đến hát chèo, vì
nhiều người biết đánh trống chèo. Tống Xá có một phường chèo nổi tiếng từ lâu
đời, nổi danh một vùng (do Cụ Thận làm chủ) . Hát chèo, tuồng, hát cải lương,
chầu văn, hát sẩm soan.. nhiều ông, nhiều bà hát không kém diễn viên…nhà hát, thậm
trí còn hay hơn, nay dư âm vẫn còn vang vọng, thể hiện rõ rệt nhất ở lễ hội gần
đây với vở chèo hay. Cũng nhờ nghề “đòn gánh trên vai” giao lưu khắp nơi mà
ngôn ngữ nghề nghiệp cũng được hình thành và phát triển. Riêng về ngôn ngữ nghề
nghiệp đã trở thành những câu chuyện rí rỏm mỗ tôi đủ sức lập thành một trang, vừa độc đáo
vừa buồn cười, vui nhộn, rất Tống xá. Ví dụ: Gỗ mày lòi (trống trung thu trẻ
con bằng thân cây luồng), nghê (đồ thờ), quỳ (cứt), thày đấu (con cặc, hi… hi!),
đàu làng (tiền)…
Mỗ
xa quê 60 năm rồi, bát thập hồi nhi, trí nhớ kém, hay lẫn lộn. Mỗ viết cho vui
thôi. Mỗ có tham khảo tác phẩm của ông
Dương Doãn Đức, là tiến sĩ (ông nghè hiện đại) của Tống xá. Mỗ sẽ viết tiếp, nếu còn sức!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét