Chủ Nhật, 15 tháng 1, 2023

 

TỐNG XÁ QUÊ TA

 Nguyễn Văn Chất  

Hồi Nhi 80   

          Hiện nay, Mỗ, tôi đang sống ở Hà nội cùng với toàn  thể gia đình, bà xã, các con và các cháu nội ngoại. Không phải vì Hà Nội to đẹp, hoành tráng, ăn sung mặc sướng, mà vì hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh gia đinh, Mỗ tôi phải xa rời quê cha đất tổ .

           Quê hương  là trùm khế ngọt”,  thơ của Đỗ Trung Quân, hay, nhưng với Mỗ quê hương không ngọt, thậm chí có vị đắng, nên Mỗ không ở quê, quê hương không phải là chỗ nương thân. Nhưng “Nghìn năm mảnh đất quê hương, là hòn đất đã trộn xương máu mình” (Thơ Xuân Diệu) lại đầy ý nghĩa,  nên Mỗ rất yêu quý quê hương, không phải bằng vật chất tầm thường, mà bằng cả tâm linh.

“Con người có tổ có tông

Như cây có cội, như sông có nguồn”

 Đặc biệt là  làng thôn, nơi Mỗ được sinh ra, chôn nhau cắt rốn và lớn lên.

 Làng Tống xá, tổ tiên,  ông bà và bố mẹ, dòng họ Nguyễn Văn ở đó nay vẫn nguyên. Nhà thờ tổ (họ Nguyễn Văn) gần  giữa làng to và khang trang. Hàng năm Mỗ về cúng  tổ ngày 10/3 âm lịch (trùng với giỗ tổ Hùng Vương,  hi, hi..).

 Tìm hiểu vế đất quê làng  Tống xá, Mỗ được biết, làng Tống xá đã có hơn một nghìn năm rồi ( theo tài liệu trên mạng 1230 năm), ban đầu chỉ là nơi khai khẩn của  mấy gia đình họ Tống, dần dần đông gia đình đến ở thành khu  cư xá của họ Tống, gọi là Tống Xá. Sau khi họ Tống lạc loài khỏi đi nơi khác sinh sống, thì Tống Xá đã có nhiều họ hàng đến sinh sống làm ăn, dần dần thành khu dân cư tổng hợp  nhiều họ (tên Tống xá vẫn được giữ nguyên - rất văn hóa…!). Hai họ lớn nhất hiện nay là họ Dương Doãn…  và họ Nguyễn Văn (A) - (Tống xá có hai họ Nguyễn Văn), Họ Nguyễn Văn (A), họ Mỗ, tuy  đến Tống xá sau nhưng, rất đông, hơn họ Dương,  dân số chiếm gần nửa làng Tống Xá ( Mỗ tôi có một bài viết  về họ Nguyễn Văn(A) trên Blog Thảo Dân Hưu).

Làng Tống Xá không rộng, nhưng chạy dài hướng đông tây khoảng một cây số, trước làng là một con đường cái rộng  uốn khúc như hinh con long.  Làng có nhiều dong ngõ, dân làng ở trong các dong ngõ. Để  dễ  quản lý , làng chia thành  từng xóm,  xóm Đương, xóm Đá, xóm Đình, xóm Thần xóm Giữa, và xóm Hà.

Đình và chùa làng Tống không nhiều.  Chùa to và đẹp phía sau, cuối làng, do ta phá lấy gạch xây hầm chống  pháp, rồi bị Tây đốt sạch. Gần đây được sư Da (tên cúng cơm),  người làng,  họ Bùi, tu nơi khác, cúng và xây  lại chùa trên nền chùa  cũ, không lớn nhưng có hồn, dân làng mừng lắm, các phật tử phải đi lễ ở chùa Khám (cổ liêu), nay  được lễ phật ở chùa làng. Tiếp là cụ sư Hải về chủ trì  và quản lý, tôn tạo, nâng cấp, hiện đại đẹp khang trang, long trọng. Ngoài cổng chùa, phía trước là văn chỉ thờ chỉ thiên Khổng tử (Nho giáo), mất  từ lâu, ít người biết. Tống xá có một đinh lớn thờ thần Đông (thành hoàng)  phía sau làng, nên quen  gọi là đình Sau, đình to và đẹp, linh thiêng, ngôn ngữ làng kiêng gọi từ “đông”, phải đổi thành “đương”, (xóm Đông phải đổi thành  xóm  Đương). Dọc làng  có năm miếu nhỏ thuộc thành hoàng, trong đó đình Nhị (thuộc thành hoàng) cũng to và hoành tráng hơn các miếu, nhưng cũng bị Tây đốt, các miếu bị ta phá làm đường, nay không còn… Ngoài ra có đình Thánh tổ, không phải là đinh làng mà đình  của phường đúc lưỡi cày cũng to và hoành tráng,  thờ cụ tổ Đức Minh Không, người từ nơi khác về làng dậy đúc. Trước đây chỉ có khoảng mươi gia đình nghề đúc lưỡi cày và những người buôn bán lưỡi cày hay lễ cúng vào ngày tết,  ngày lễ hội. Ngày nay đình Sau không còn, làng thờ thành  hoàng luôn tại đình Thánh tổ, coi đình Thánh tổ là đình làng.  Một đình to trước xóm Đình, gọi là đình Đất,  không thờ cúng mà chỉ để dân làng hội họp, nay không còn, khu đất làm chợ, gọi là chợ Đình.

Tống xá từ thời thượng cổ, chỉ là dân ngụ cư lâu đời nên không  có ông quan  to nổi tiếng, chỉ có quan lại trong làng.  Một  truyền thuyết thành truyện, xin kể cho vui: Có một ông học  giỏi thi đỗ quan nghè, khi về, dân làng mừng quá đem kiệu,   cờ quạt ra đón trước làng. Nhưng khốn  nỗi, quan nghè  muốn vào đình Sau vái báo thành hoàng trước. Mặt khác ông kiêng trước làng vì có đường Hậu (bãi tha ma làng Cổ liêu) ông nghè   không muốn đi qua. Không thấy dân làng ra đón, tưởng dân làng coi thường, ông Nghè tự ái tức quá nhảy xuống sông tự tử và thề rằng, làng  Tống Xá không bao giờ có người học hành đỗ đạt. Cũng từ đó  Tống Xá không có người làm quan.  Làng ân hận, phải  thờ quan nghè trong miếu thành hoàng  ( gọi là miếu Đồng Chầu, nay cũng không còn), đường vào làng nơi ông Nghè tự vẫn gọi là đường  Nghè ( ông Nghè), cánh đồng gần mộ ông , dân gọi là Nhiêu mả.

Làng ít cây to cổ thụ, có  hai cây bàng to, trước cửa đình Đất, bị chặt làm hầm chống Pháp. Một cây muỗm to lắm ( mấy trăm tuổi), không biết cây muỗm trồng từ bao giờ giữa xóm Đương, phía trước miếu thờ  thần Đông . Gốc cây muỗm to,   phải mười xoải tay,  cao , không thang nào bác lên được, cành lá tán rộng tới sào ruộng, nơi dân làng nghỉ ngơi trước khi đi làm hoặc đi làm đồng về, nơi trẻ con chơi vui ngày tết, ngày lễ hội…Nếu được bảo vệ cây cổ thụ thì chắc chắn cây muỗm sẽ được xếp vào loại những cây cổ thụ to đẹp nhất đất nước. Do trình độ hạn chế, không nghiên cứu kỹ nên chính quyền  muốn xây dựng nông thôn đẹp phá miếu thần Đông và chặt cây muỗm để mở rộng và nắn đường làng thẳng cho khỏi quanh co.

Tống xá không phải đất thổ công lâu đời, dân nơi khác đến sinh sống lập nghiệp, nên ruộng đất ít, chỉ có mấy cánh đồng trước sau làng,  dân số tăng nhanh.  Làm ruộng không đủ sống, phải có nghề phụ làm thêm trong tháng ba ngày tám, đòn gánh trên vai lúc thư nhàn. Từ  nhỏ Mỗ đã thấy có các nghề, bưng trống, đúc, buôn  đồ đồng, hàn, gò (nồi, xong, chảo),  Nghề đúc, trước đây chỉ đúc lưỡi cày bán cho nhà nông, ngày nay cơ chế phát triển mạnh thành một tiểu khu công nghiệp đúc có tiếng, đúc gang, đồng, đúc nhôm , không những chỉ môt vùng, mà cả nước.

Một nghề phụ rất quan trọng đã từng một thời nuôi sống và làm rạng rỡ  dân làng Tống Xá, đó là nghề bưng trống, Tống Xá gọi là nghề “cổ tượng”. Từ đầu làng đến cuối làng, hầu như xóm nào, họ nào cũng có người làm nghề bưng trống. Thị trường nghề trống là các trường học, đình, chùa, nhà thờ đạo…và các cơ sở hội hè ở các vùng tỉnh Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà nam… tập trung nhiều nhất những nơi có nhà thờ thiên chúa giáo. Một số có cửa hàng trống Cu tông (Tống xá)  ở thành phố Nam định và thị xã Thái Bình.

Nhờ nghề làm trống cùng với  nghề đúc, buôn bán mà mặc dù ruông đất quá ít, nhưng đời sống dân làng được đảm bảo, giáp hạt không bị đói, ngày tết ngày giỗ có mâm quả tươm tất cúng tổ tiên. Thợ trống không phải là thợ hèn, còn sang hơn cả thợ mộc, thợ xây, đi đến đâu, có việc, đều được đãi cơm rượu tử tế. Nghề trống Tống Xá không có đình thờ, vì không có ông tổ nghề như nghề đúc, nên   ở thành hoàng (đình Sau), trong đình có treo một trống cái rất to, mặt trống đúng bằng  da một con trâu để lấy tiếng tăm (nay gọi là thương hiệu), lúc đó Mỗ còn nhỏ, trẻ con đánh trống phải cầm dùi to (giống như cái vồ nhưng rất đẹp) chạy từ xa đến gõ, trống không kêu đanh, nhưng  “tiếng vang” cho một nghề của làng thì rất rộng, mênh mông. Điều đáng ghi nhận, nhờ nghề trống, cùng các nghề đúc, đòn gánh trên vai, dân làng giao tiếp rộng rãi khắp thiên hạ, mà nền văn hóa “làng xã” ở Tống Xá phát triển. “Đánh trống” dân Tống Xá thuộc loại nhất nhì một vùng. Các thợ trống đánh trống tế, lễ ở các đình chùa làng xã cực giỏi. Trẻ em trong làng, Mỗ hồi nhỏ,  đều biết đánh trống rước, trống ngũ lôi, trống ếch, trống múa rồng, múa sư tử.  Nghề trống rất có tác động đến hát chèo, vì nhiều người biết đánh trống chèo. Tống Xá có một phường chèo nổi tiếng từ lâu đời, nổi danh một vùng (do Cụ Thận làm chủ) . Hát chèo, tuồng, hát cải lương, chầu văn, hát sẩm soan.. nhiều ông, nhiều bà hát không kém diễn viên…nhà hát, thậm trí còn hay hơn, nay dư âm vẫn còn vang vọng, thể hiện rõ rệt nhất ở lễ hội gần đây với vở chèo hay. Cũng nhờ nghề “đòn gánh trên vai” giao lưu khắp nơi mà ngôn ngữ nghề nghiệp cũng được hình thành và phát triển. Riêng về ngôn ngữ nghề nghiệp đã trở thành những câu chuyện rí rỏm mỗ  tôi đủ sức lập thành một trang, vừa độc đáo vừa buồn cười, vui nhộn, rất Tống xá. Ví dụ: Gỗ mày lòi (trống trung thu trẻ con bằng thân cây luồng), nghê (đồ thờ), quỳ (cứt), thày đấu (con cặc, hi… hi!), đàu làng (tiền)…

 

Mỗ xa quê 60 năm rồi, bát thập hồi nhi, trí nhớ kém, hay lẫn lộn. Mỗ viết cho vui thôi. Mỗ  có tham khảo tác phẩm của ông Dương Doãn Đức, là tiến sĩ (ông nghè hiện đại) của Tống xá.  Mỗ sẽ viết tiếp, nếu còn sức!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét