Thứ Tư, 23 tháng 12, 2020

KHÔNG HIỂU TẠI SAO?

         Năm 1975, sau giải phóng đơn vị tôi vào tiếp quản kho quân y của ngụy quyền ở bán đảo Cam  Ranh. Kho trống rỗng, chỉ có tài sản quân ta chuyển đến, sổ sách niêm phong rất chặt chẽ, đơn  vị tôi rất ít người, chủ yếu là trông coi, dọn,  vận  chuyển, việc cấp phát đã có thủ kho và kế toán. Một thời gian, hàng từ bắc vào cho cả miền nam quá  nhiều, đơn vị tôi, không đủ người vận chuyển, lính được  tăng thêm, khoảng mười thanh niên rất khỏe từ các đơn vị khác đầu tư phục vụ cùng đơn vị tôi. Những thanh niên này là lính ngụy ra hàng rồi nhập vào quân đội để lao động. Họ làm quen nhanh  thân thiện, làm việc rất bài bản,  có nhiều sáng tạo nên công việc rất nhanh, không ỳ ạch như trước. Mới gặp tôi cứ tưởng chúng hỗn láo, phá phách, chống đối, bửa, không chịu làm. Sau thời gian thấy ngược lại. Một lần ngồi giao lưu với nhau, họ nói rất thật với tâm trạng bằng một câu văn của nhà văn  Pháp mà chúng tôi không nghĩ tới, thậm chí nhiều người không biết: “ Hòa bình là hạnh phúc của nhân loại, Chiến tranh là tội ác” (Victor Hugo) , chắc họ cũng chỉ là bị ngụy quyền bắt đi lính mà thôi.

Một lần đi công tác vào Sài Gòn, lĩnh lương  và nhu yếu phẩm cho đơn vị, tôi được bố  ở quê nhắn nếu vào Sài Gòn tới chùa Vĩnh Nghiêm gặp chị Thanh. Chị Thanh con bà cô bác, ở nhà tên là Khởm, chị  xinh đẹp, bị Tây bắt lấy Tây,  chị không đi theo tây sang Pháp, ở lại Sài gòn và ở tại chùa Vĩnh nghiêm. Chùa Vĩnh nghiêm rất to và đẹp do người dân Bắc kỳ di cư xây dựng, ở Sài Gòn ít chùa, nhiều nhà thờ công giáo hoành tráng,  phật tử từ Bắc di cư vào cũng rất đông, chùa Vĩnh nghiêm chủ yếu giành cho phật tử xứ Bắc.   Chị ở chùa Bắc, là phật tử chủ trì quản lý, không phải là sư là tăng ni. Khi tôi vào gặp được chị Thanh, chị mừng lắm, vì được gặp em  con cậu  nggoại ngoài bắc vào, đươc nghe chuyện gia đình làng quê. Chị dẫn tôi thăm chùa, chào sư và các tăng ni, phật tử, đều là người bắc, nên họ rất quý. Hôm sau chị dẫn tôi thăm một số gia đình người làng Tống xá di cư vào, trong đó gia đình ông Nghiêm, ông Nghiêm trước đây là lý trưởng thôn, lại thông gia với gia đình tôi, (anh Hợp là con rể).  Ông  Nghiêm và bà cả đã mất. Tôi gặp bà hai, chị Trang vợ cũ anh Hợp, anh  Kính, là lính ngụy, không phải sĩ quan ngụy không phảỉ đi cảỉ tạo, em sau Kính là Cảnh sĩ quan ngụy phải tù cải tạo, chị Trang, chị dâu cũ, cuộc đời chị cũng gian khổ lắm. Kính, trạc tuổi tôi, hồi trẻ cùng học với nhau lớp sơ cấp trường làng nên nói chuyện thân thiện,  nhiều chuyện ôn  lại hồi trẻ , hỏi thăm bạn cũ, các bạn giống như tôi phần lớn đều là lính cụ Hồ, nay  có nhiều người ở Sài Gòn tôi không gặp.

Tôi vào bệnh viện 175 (VN cộng hòa) gặp Tia đưa lá thư tay của Khiết con ông  Trang gửi Tia ở bệnh viện 175 quân đội .  Tia là lính ngụy của quân SG nhưng là y tá bệnh viện CH, khi giải phóng, là hàng binh, ở lại BV làm y tá cho BV 175.  Lúc đầu Tia còn lạ, khi đã biết nhau cùng quê, đồng hương, Tia có thư tay,  nên trở nên rất cởi mở tình đồng hương, Tia mời tôi đến thăm nhà nhưng không ăn nhậu gì,  nói chuyện cởi mở. Tôi kể cho Tia biết nhà thờ Vạn điểm vẫn còn nguyên, dân công giáo và bạn học cũ như Khiêm,  Ích, Ngọc…Tia biết và nhớ, đều khỏe và rất tốt.

     Khi chưa giải phóng 1975, ở hai chiến tuyến, chúng tôi còn là kẻ thù của nhau, trước mũi súng bắn nhau mà không biết, khi bắn nhau chết còn vui chiến thắng. Ngồi nói chuyện với nhau, ai cũng nghĩ tới điều đó nhưng không dám nói ra. Tôi đã từng đọc “Nỗi buồn chiến tranh” của  nhà văn  Bảo Ninh, được thế giới đánh giá cao,  cả hai phía  “ta” và “địch”  có người đã đọc cũng có người chưa đọc ai cũng nghĩ  “Chiến tranh là thế đấy!”.        

 

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2020

 

 

“TÔI” VỚI NỀN “VĂM MINH” NHÂN LOẠI

 “Tôi” danh từ chung, không phải tác  giả

Nguyễn Văn Chất

Không biết  từ bao giờ con  người đã củng cố cho mỗi người một cái “tôi” riêng biệt và tách biệt, độc lập và đối lập với thế giới quanh mình. Hình thành trong lòng mẹ, “tôi” với mẹ là một. “Tôi”  hình thành tồn tại trong máu thịt mẹ.  Lọt lòng, cắt rốn, khóc oe oe lần đầu “tôi” như vừa bị đuổi ra khỏi lòng mẹ. Và, ngày từng ngày hình thành cái “tôi” riêng, gắn liền với mẹ.

 Càng lớn, càng thấy thế giới bên ngoài mênh mông, muôn hình muôn vẻ, bắt “tôi” phải thích nghi, phải biết điều, phải giành giật, phải chinh phục, phải đối phó.

Thực tế, bên  “tôi”   đầy những dồn dập, sóng dữ, luôn ở tư thế đối đầu với thực tại bên ngoài, đó là một nền văn minh nhân loại. Nền văn minh sớm rõ nét nhất từ trong gia đình. Có hai loại văn mình cách biệt trong gia đình, “tôi” gọi là văn minh âm tính văn minh dương tính, vì nó đã tạo ra “tôi” khám phá và chinh phục, (hạnh phúc,  bất hạnh).

         Nền văn minh âm tính là nền văn minh của Mẹ. Văn minh dương tính là nền văn minh của Cha. Văn minh âm tính là sự chăm sóc, yêu thương “tôi”, mẹ cho bú, mớm, đút cơm, bế ẵm trên tay…, nhất là lúc  “tôi” oe oe khóc và khi “tôi” he he cười, mẹ  hôn hít, vui sướng, cười ra nước mắt.

          Văn minh dương tính (cha), không máu mủ nhưng là quan hệ  huyết thống (gọi là AND), cha yêu thương,  quý “tôi” có khi hơn cả mẹ, nhưng cha nghiêm khắc,  bắt “tôi” phải học, buộc “tôi” phải hiểu theo  kịp với thời thế, cha có khi lời nói to nhỏ để răn dạy, cũng có khi quát mắng roi vọt,…nhưng rất quý, chính là sự mong muốn “tôi” thành người của nòi giống.

Công cha như núi thái sơn (không  đo được)

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra (không  đong  được)

Trong gia đình, còn có anh chi em ruột và..., “tôi” cùng các anh các chị và em ruột đều được hưởng nền văn minh âm và dương thân thuộc yêu thương của cha mẹ.

          Khi xây dựng gia đình (vợ chồng) “tôi” lại có thêm nền văn minh tình thương,  nền văn mình này  cũng sẽ là nền văn minh gia đình (âm dương) ,rất văn hóa:

                        “Vợ chồng là nghĩa tao khang”    

    Càng trưởng thành, “tôi” càng tiếp xúc mở rộng  với nền văn minh, trước hết là văn minh  địa chính, (quê hương,  nội tộc;  làng , xã , huyện , tỉnh , tổ quốc…). Thơ ca gọi là chùm khế ngọt “Tôi” khác với xúc vật, xúc vật không có. 

  Và , ‘tôi”  đến với văn minh cộng đồng mênh mông,  nền văn minh nhân loại, thể hiện trong không gian, thời gian, ý thức hệ… Tiếp xúc với nền văn minh này bắt “tôi” phải giành giật, chinh phục và phải đối phó không phải chỉ bằng giác quan (nghe, nhìn, thở,…) mà bằng trí tuệ, bằng  tay, chân và mọi sự hiểu biết.

Nền văn minh nhân loại dần dân xã hội hóa cao,  nên rất phức tạp và không giản đơn với “tôi” nữa,  tôn giáo, đạo luật, đảng phái đoàn thể…,”tôi”càng  phải, giành giật, chinh phục và đối phó để hòa nhập để nền văn minh có “một mẫu số chung”. Nền văn minh ngày càng khốc liệt: Thương yêu nhau nhiều, đánh nhau có , cướp bóc và giết nhau cũng nhiều,…. Muốn sống với nền văn minh này “tôi” phải biết tự lập, học để có trí tuệ minh mẫn, luyện tập thân thể để có sức, phải  quan hệ giao tiếp người với người, phải có tài sản vật chất vừa và đủ, biết tôn trọng và không thủ đoạn với ngưới khác, phải biết yêu ghét. “What, where, when, who, how”(tuyên ngôn Víctoria) dạy, “tôi”  bất kỳ viêc gì, ăn gì, ở với ai, ở đâu đều không được thắng thua…Xin lỗi! Nói hơi cùn một chút, Chết cũng phải văn minh. “Tôi” có thể chết vì bệnh tật, vì tai nạn, vì liêm sỉ vì tuổi già…nhưng không được chết vì không hiểu biết, vì ngu si.

 

Nền Văn minh nhân loại. Tất cả đều có giá của nó.

                        Nv_chat2006@yahoo.com.vn

 

 

Thứ Ba, 8 tháng 12, 2020

 

HOÀI CỔ

Nguyễn Văn Chất

 

 “ Tôi là người hoài cổ, tôi yêu và nhớ những gì chưa bị cái gọi là hiện đại vốn kiêu căng xóa mất…”. Đoạn  văn trích trong Hồi Ký Đồng Bằng của Nhà  văn Nguyên Ngọc, mỗ mới đọc trên mạng.

 Đoạn văn chia hai ý.  Người hoài cổ (Nhớ lại những gì quá khứ).. Cái quá khứ thì xóa mất, cái hiện đại thì kiêu căng. Ý của đoạn văn rất hợp với mỗ. Bản thân mỗ cũng hay hoài cổ những đêm khuya khó ngủ. Hoài cổ là mẫu số chung hợp với tuổi già.

Nguyên Ngọc

Mỗ năm năm nay sắp ở tuổi hồi nhi, bát thập, đã từng trải nhiều việc gây ấn tượng trong cuộc đời, tốt có, xấu có. Có những cái tốt, cái xấu do khách quan, nhưng cũng có cái xấu cái tốt do chủ quan tự mình gây ra. Trải qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn, từ kháng chiến chống pháp, kháng chiến chống Mỹ Tất cả những việc tốt xấu đó mỗ ít quên, thậm chí không bao giờ quên, vưỡn nhớ hoài.

Hồi giải phòng miền nam (1975), đơn vị mỗ tiếp quản kho quân y ở  Cam Ranh.  Cảng Cam Ranh do Mỹ để lại, trống không (kho tài sản, kho vũ khí, lương thực, thiết bị y tế,…) là chiến lợi phẫm hầu như không còn gì, không hiểu ai lấy. Kho quân y đơn vị mỗ tiếp quản chủ yếu là hàng quân y của nhà nước đem đến giao để dự trữ,  phân phát cho khu vực phía nam mới giải phóng, có giấy tờ sổ sách, niêm phong. Bán đảo còn rất hoang sơ, chỉ có bộ đội hải quân,  núi cát và đồi trọc, hoang vu .  Khi ra thị xã Cam ranh có việc, phải qua cầu Mỹ Ca, lính tráng không được ra, chiến sĩ phải có giấy phép mới được qua cầu đồng thời còn bị khám rất kỹ. Bên trong bán đảo Cam ranh chỉ có một phường Cam Xuân nhỏ là có dân, chủ yếu là vợ con sĩ quan ngụy và cave (!) được ở sinh sống cùng với chồng, và bán hàng hóa cho lính ngụy.  Ngày nay thì khác hẳn rồi, ngồi xem TV thấy Cam Ranh hoành tráng ghê, ngoài cảng, có nơi du dịch, có sân bay quốc tế, có khách sạn…Mỗ chắc chắn không thể đến thăm lại được vì lép ví, không có “tiền chùa”.


                                                                 Mỗ ở Cam ranh 1975 

Cùng thời có hai chú em họ tù ở đảo Phú Quốc, khi giải phóng miền Nam được trao trả tù binh, nay sống ở quê nhà. Phú quốc bây giờ khác xưa lắm rồi, không còn nhà tù, trở thành nơi du lịch rất “hoành tá tràng”, hai chú em ngồi xem TV, không chút khao khát được đến thăm lại Phú Quốc, có muốn cũng chẳng ai để ý đến, chỉ ngồi ở nhà, ước mong được gặp lại đồng đội, đồng chí cùng lao tù ở PHÚ QUỐC để cùng nhau  tâm sự, hoài cổ, nhớ lại một thời oanh liệt.

 Bây giờ, người ta sống theo mốt.  Mốt nghĩa là cách thức, phương pháp, quy tắc, mức độ chuẩn mực chung  được công nhận tức thời nhưng dễ thay đổi, (theo từ điển la tinh (modul), tiếng Pháp (mode) ta phiên âm tiếng pháp ( mốt ).

 Ở Viêt nam, thời hiện đại, lĩnh vực nào cũng có mốt, không chỉ thời trang. Đám cưới, thiếp cưới, mừng thọ, hội làng, xây dựng, xây  đinh chùa. Giầu thì khoe sang nhiều tiền, nghèo thì đua đòi mốt để khỏi bị thiên hạ coi thường.  Mốt là một nguyên nhân nẩy sinh ra rất nhiều tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, cướp, hụi, loạn xã hội,…mất tình cảm bạn bè, thâm chí tình máu mủ. Nhà nước, các cơ quan từ nhỏ đến to, từ thấp đến cao mọi lĩnh vực đều thích mốt theo nhiệm kỳ, nhiệm kỳ sau mốt mới. Mốt, ngoài đời bây giờ đang kiêu căng, khi hết mốt nhà cửa thì đập phá làm lại, đồ dùng vật dụng đem vứt vào đống rác, thời trang không vứt hố rác được thì đem tặng người nghèo, lũ lụt  để khỏi phải hoài cổ.

“Mốt” xin bạn đọc bỏ bớt đi dấu mũ (^) thành “mót” thì đúng hơn.. .Mốt (mót) cũng chỉ như là thời trang đỏng đảnh có thời hạn.

Còn những người,  những người có văn hóa, thì không thích mốt, sống  khác, tránh xa, kệ xác, có cách sống riêng, ( như hoài cổ), không thích khen chê, thậm chí còn xấu hổ ngại ngùng khi sử dụng mốt. Cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc, giúp mỗ tỉnh giấc khi mê ngủ!


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

HOÀI CỔ

Nguyễn Văn Chất

 

 “ Tôi là người hoài cổ, tôi yêu và nhớ những gì chưa bị cái gọi là hiện đại vốn kiêu căng xóa mất…”. Đoạn  văn trích trong Hồi Ký Đồng Bằng của Nhà  văn Nguyên Ngọc, mỗ mới đọc trên mạng.

 Đoạn văn chia hai ý.  Người hoài cổ (Nhớ lại những gì quá khứ).. Cái quá khứ thì xóa mất, cái hiện đại thì kiêu căng. Ý của đoạn văn rất hợp với mỗ. Bản thân mỗ cũng hay hoài cổ những đêm khuya khó ngủ. Hoài cổ là mẫu số chung hợp với tuổi già.

       Mỗ năm năm nay sắp ở tuổi hồi nhi, bát thập, đã từng trải nhiều việc gây ấn tượng trong cuộc đời, tốt có, xấu có. Có những cái tốt, cái xấu do khách quan, nhưng cũng có cái xấu cái tốt do chủ quan tự mình gây ra. Trải qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn, từ kháng chiến chống pháp, kháng chiến chống Mỹ Tất cả những việc tốt xấu đó mỗ ít quên, thậm chí không bao giờ quên, vưỡn nhớ hoài.

Hồi giải phòng miền nam (1975), đơn vị mỗ tiếp quản kho quân y ở  Cam Ranh.  Cảng Cam Ranh do Mỹ để lại, trống không (kho tài sản, kho vũ khí, lương thực, thiết bị y tế,…) là chiến lợi phẫm hầu như không còn gì, không hiểu ai lấy. Kho quân y đơn vị mỗ tiếp quản chủ yếu là hàng quân y của nhà nước đem đến giao để dự trữ,  phân phát cho khu vực phía nam mới giải phóng, có giấy tờ sổ sách, niêm phong. Bán đảo còn rất hoang sơ, chỉ có bộ đội hải quân,  núi cát và đồi trọc, hoang vu .  Khi ra thị xã Cam ranh có việc, phải qua cầu Mỹ Ca, lính tráng không được ra, chiến sĩ phải có giấy phép mới được qua cầu đồng thời còn bị khám rất kỹ. Bên trong bán đảo Cam ranh chỉ có một phường Cam Xuân nhỏ là có dân, chủ yếu là vợ con sĩ quan ngụy và cave (!) được ở sinh sống cùng với chồng, và bán hàng hóa cho lính ngụy.  Ngày nay thì khác hẳn rồi, ngồi xem TV thấy Cam Ranh hoành tráng ghê, ngoài cảng, có nơi du dịch, có sân bay quốc tế, có khách sạn…Mỗ chắc chắn không thể đến thăm lại được vì lép ví, không có “tiền chùa”.

 

 

 


 

                 Mỗ ở Cam ranh 1975

 

Cùng thời có hai chú em họ tù ở đảo Phú Quốc, khi giải phóng miền Nam được trao trả tù binh, nay sống ở quê nhà. Phú quốc bây giờ khác xưa lắm rồi, không còn nhà tù, trở thành nơi du lịch rất “hoành tá tràng”, hai chú em ngồi xem TV, không chút khao khát được đến thăm lại Phú Quốc, có muốn cũng chẳng ai để ý đến, chỉ ngồi ở nhà, ước mong được gặp lại đồng đội, đồng chí cùng lao tù ở PHÚ QUỐC để cùng nhau  tâm sự, hoài cổ, nhớ lại một thời oanh liệt.

 

 

 

Bây giờ, người ta sống theo mốt.  Mốt nghĩa là cách thức, phương pháp, quy tắc, mức độ chuẩn mực chung  được công nhận tức thời nhưng dễ thay đổi, (theo từ điển la tinh (modul), tiếng Pháp (mode) ta phiên âm tiếng pháp ( mốt ).

 Ở Viêt nam, thời hiện đại, lĩnh vực nào cũng có mốt, không chỉ thời trang. Đám cưới, thiếp cưới, mừng thọ, hội làng, xây dựng, xây  đinh chùa. Giầu thì khoe sang nhiều tiền, nghèo thì đua đòi mốt để khỏi bị thiên hạ coi thường.  Mốt là một nguyên nhân nẩy sinh ra rất nhiều tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, cướp, hụi, loạn xã hội,…mất tình cảm bạn bè, thâm chí tình máu mủ. Nhà nước, các cơ quan từ nhỏ đến to, từ thấp đến cao mọi lĩnh vực đều thích mốt theo nhiệm kỳ, nhiệm kỳ sau mốt mới. Mốt, ngoài đời bây giờ đang kiêu căng, khi hết mốt nhà cửa thì đập phá làm lại, đồ dùng vật dụng đem vứt vào đống rác, thời trang không vứt hố rác được thì đem tặng người nghèo, lũ lụt  để khỏi phải hoài cổ.

“Mốt” xin bạn đọc bỏ bớt đi dấu mũ (^) thành “mót” thì đúng hơn.. .Mốt (mót) cũng chỉ như là thời trang đỏng đảnh có thời hạn.

Còn những người,  những người có văn hóa, thì không thích mốt, sống  khác, tránh xa, kệ xác, có cách sống riêng, ( như hoài cổ), không thích khen chê, thậm chí còn xấu hổ ngại ngùng khi sử dụng mốt. Cám  ơn nhà văn Nguyên Ngọc, giúp mỗ tỉnh giấc khi mê ngủ!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

HOÀI CỔ

Nguyễn Văn Chất

 

 “ Tôi là người hoài cổ, tôi yêu và nhớ những gì chưa bị cái gọi là hiện đại vốn kiêu căng xóa mất…”. Đoạn  văn trích trong Hồi Ký Đồng Bằng của Nhà  văn Nguyên Ngọc, mỗ mới đọc trên mạng.

 Đoạn văn chia hai ý.  Người hoài cổ (Nhớ lại những gì quá khứ).. Cái quá khứ thì xóa mất, cái hiện đại thì kiêu căng. Ý của đoạn văn rất hợp với mỗ. Bản thân mỗ cũng hay hoài cổ những đêm khuya khó ngủ. Hoài cổ là mẫu số chung hợp với tuổi già.

       Mỗ năm năm nay sắp ở tuổi hồi nhi, bát thập, đã từng trải nhiều việc gây ấn tượng trong cuộc đời, tốt có, xấu có. Có những cái tốt, cái xấu do khách quan, nhưng cũng có cái xấu cái tốt do chủ quan tự mình gây ra. Trải qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn, từ kháng chiến chống pháp, kháng chiến chống Mỹ Tất cả những việc tốt xấu đó mỗ ít quên, thậm chí không bao giờ quên, vưỡn nhớ hoài.

Hồi giải phòng miền nam (1975), đơn vị mỗ tiếp quản kho quân y ở  Cam Ranh.  Cảng Cam Ranh do Mỹ để lại, trống không (kho tài sản, kho vũ khí, lương thực, thiết bị y tế,…) là chiến lợi phẫm hầu như không còn gì, không hiểu ai lấy. Kho quân y đơn vị mỗ tiếp quản chủ yếu là hàng quân y của nhà nước đem đến giao để dự trữ,  phân phát cho khu vực phía nam mới giải phóng, có giấy tờ sổ sách, niêm phong. Bán đảo còn rất hoang sơ, chỉ có bộ đội hải quân,  núi cát và đồi trọc, hoang vu .  Khi ra thị xã Cam ranh có việc, phải qua cầu Mỹ Ca, lính tráng không được ra, chiến sĩ phải có giấy phép mới được qua cầu đồng thời còn bị khám rất kỹ. Bên trong bán đảo Cam ranh chỉ có một phường Cam Xuân nhỏ là có dân, chủ yếu là vợ con sĩ quan ngụy và cave (!) được ở sinh sống cùng với chồng, và bán hàng hóa cho lính ngụy.  Ngày nay thì khác hẳn rồi, ngồi xem TV thấy Cam Ranh hoành tráng ghê, ngoài cảng, có nơi du dịch, có sân bay quốc tế, có khách sạn…Mỗ chắc chắn không thể đến thăm lại được vì lép ví, không có “tiền chùa”.

 Cùng thời có hai chú em họ tù ở đảo Phú Quốc, khi giải phóng miền Nam được trao trả tù binh, nay sống ở quê nhà. Phú quốc bây giờ khác xưa lắm rồi, không còn nhà tù, trở thành nơi du lịch rất “hoành tá tràng”, hai chú em ngồi xem TV, không chút khao khát được đến thăm lại Phú Quốc, có muốn cũng chẳng ai để ý đến, chỉ ngồi ở nhà, ước mong được gặp lại đồng đội, đồng chí cùng lao tù ở PHÚ QUỐC để cùng nhau  tâm sự, hoài cổ, nhớ lại một thời oanh liệt.

 Bây giờ, người ta sống theo mốt.  Mốt nghĩa là cách thức, phương pháp, quy tắc, mức độ chuẩn mực chung  được công nhận tức thời nhưng dễ thay đổi, (theo từ điển la tinh (modul), tiếng Pháp (mode) ta phiên âm tiếng pháp ( mốt ).

 Ở Viêt nam, thời hiện đại, lĩnh vực nào cũng có mốt, không chỉ thời trang. Đám cưới, thiếp cưới, mừng thọ, hội làng, xây dựng, xây  đinh chùa. Giầu thì khoe sang nhiều tiền, nghèo thì đua đòi mốt để khỏi bị thiên hạ coi thường.  Mốt là một nguyên nhân nẩy sinh ra rất nhiều tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, cướp, hụi, loạn xã hội,…mất tình cảm bạn bè, thâm chí tình máu mủ. Nhà nước, các cơ quan từ nhỏ đến to, từ thấp đến cao mọi lĩnh vực đều thích mốt theo nhiệm kỳ, nhiệm kỳ sau mốt mới. Mốt, ngoài đời bây giờ đang kiêu căng, khi hết mốt nhà cửa thì đập phá làm lại, đồ dùng vật dụng đem vứt vào đống rác, thời trang không vứt hố rác được thì đem tặng người nghèo, lũ lụt  để khỏi phải hoài cổ.

“Mốt” xin bạn đọc bỏ bớt đi dấu mũ (^) thành “mót” thì đúng hơn.. .Mốt (mót) cũng chỉ như là thời trang đỏng đảnh có thời hạn.

Còn những người,  những người có văn hóa, thì không thích mốt, sống  khác, tránh xa, kệ xác, có cách sống riêng, ( như hoài cổ), không thích khen chê, thậm chí còn xấu hổ ngại ngùng khi sử dụng mốt. Cám  ơn nhà văn Nguyên Ngọc, giúp mỗ tỉnh giấc khi mê ngủ!